Mục tiêu kiểm soát lạm phát trung bình ở mức dưới 4% cho cả năm nay của Chính phủ đã trở nên mong manh và khó khăn hơn nhưng cũng khó xảy ra kịch bản lạm phát sẽ trượt khỏi mục tiêu này ở mức quá xa.
Tăng tốc trong tháng 5 và tháng 6
Với mức tăng 0,61% của chỉ số CPI trong tháng 6 vừa qua, lạm phát đã có bước tăng khá mạnh, khiến không ít nhà đầu tư lo lắng về xu hướng tăng tốc của lạm phát trong thời gian còn lại của năm 2018. Trên thực tế, sau khi hạ nhiệt trong tháng 3 và tháng 4, chỉ số CPI đã có dấu hiệu tăng nhanh trở lại bắt đầu từ tháng 5 (tăng 0,55%) do xu hướng hồi phục mạnh của giá mặt hàng thịt heo và các đợt điều chỉnh giá xăng liên tiếp.
Theo thống kê, trong sáu tháng đầu năm, giá mặt hàng thịt heo đã tăng khoảng 20% so với thời điểm cuối năm 2017. Trong khi đó, giá nhóm hàng giao thông cũng đã tăng khoảng 5% so với đầu năm. Tác động của hai nhân tố này không chỉ dừng lại ở tháng 5 mà đã kéo dài sang tháng 6, khiến CPI chung tiếp tục bị ảnh hưởng mạnh. Ngoài ra, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cũng là một trong những nhóm hàng tăng giá nhiều nhất (0,65%), chủ yếu do giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,2% và thời tiết nắng nóng nên nhu cầu sử dụng điện, nước tăng cao.
Với kết quả trên, chỉ số CPI vào thời điểm cuối tháng 6-2018 đã tăng 2,22% so với tháng 12-2017 và tăng 4,67% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, CPI bình quân nửa đầu năm 2018 đã tăng 3,29% so với bình quân cùng kỳ năm ngoái. Một kết quả không khỏi gây lo ngại khi mục tiêu của Chính phủ năm nay là kiểm soát CPI bình quân ở mức dưới 4%.
Áp lực tăng vẫn còn
Rủi ro lớn nhất đối với chỉ số CPI trong sáu tháng cuối năm vẫn là diễn biến khó lường của hai nhóm hàng: hàng ăn, dịch vụ ăn uống và giao thông. Đối với nhóm hàng giao thông, diễn biến giá xăng dầu trong nước hiện gắn chặt với giá xăng dầu thế giới nên có thể xem đây là một rủi ro mang tính khách quan nằm ngoài khả năng kiểm soát của Chính phủ.
Giá dầu thô thế giới sau khi có đợt điều chỉnh sâu hồi đầu tháng 6 đã bật tăng mạnh trở lại trong hai tuần gần đây khi thế giới đối mặt với nguy cơ thiếu hụt nguồn cung khi Mỹ áp lệnh trừng phạt khá nghiêm khắc đối với Iran (nước xuất khẩu dầu thô lớn thứ 3 trong OPEC). Mặc dù OPEC mới đây đã đạt được cam kết tăng sản lượng nhưng thực tế khai thác có thể chỉ bằng nửa dự kiến ban đầu. Thêm vào đó, ở trong nước, Chính phủ dự kiến tăng thuế bảo vệ môi trường lên kịch khung (từ 3.000 đồng lên 4.000 đồng) ngay từ 1-7-2018. Theo đó, giá mỗi lít xăng sẽ tăng thêm 1.000 đồng, dầu diezen là 500 đồng và dầu hỏa tăng 1.100 đồng/lít. Theo tính toán, việc tăng thuế này sẽ khiến giá nhóm hàng giao thông tăng khoảng 5% và tác động làm chỉ số CPI chung tăng khoảng 0,25% riêng trong tháng 7. Đấy là chưa tính đến những tác động lan tỏa vòng 2 lên các nhóm hàng khác do xăng dầu gần như là dầu vào của mọi hoạt động trong nền kinh tế.
Đối với nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (chiếm tỷ trọng gần 40% trong rổ CPI), diễn biến sẽ rất khó lường và các công cụ kiểm soát hiện tại cho hiệu quả đôi khi còn mơ hồ và thiếu thực tế. Các chương trình bình ổn giá chỉ có tác dụng nhất định và hạn chế cho một nhóm nhỏ các mặt hàng, tại các khu vực cụ thể. Nhân tố sâu xa hơn ảnh hưởng đến mặt bằng giá cả trên thị trường chính là độ trễ của chính sách tiền tệ nới lỏng. Tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán M2 đã liên tục ở mức khá cao 17 – 19% trong các năm gần đây có thể đã tích tụ đủ những rủi ro và hiện là thời điểm bắt đầu tác động rõ nét lên lạm phát. Ngoài hai nhóm hàng giao thông và dịch vụ ăn uống thì việc điều chỉnh giá nhóm hàng giáo dục (ước tính tăng khoảng 5%) cũng có thể sẽ ảnh hưởng đến chỉ số CPI chung khoảng 0,3% trong tháng 9 tới.
Ở chiều ngược lại, điểm tích cực duy nhất giúp kiềm chế CPI trong năm nay chính là lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ y tế theo hai bước đã hoàn tất. Thậm chí, Thông tư 15 mới thay cho Thông tư 37 dự kiến sẽ giúp điều chỉnh giá một số dịch vụ y tế theo hướng giảm, giúp kiềm chế đà tăng của CPI ngay trong tháng 7. Trong hai năm 2016 và 2017, việc điều chỉnh giá nhóm hàng y tế đã có tác động rất lớn tới mức tăng CPI chung nhưng năm nay dự kiến ảnh hưởng của nhóm hàng này đến lạm phát sẽ ít hơn hẳn.
Hiện nhiều nhà đầu tư lo ngại lạm phát năm nay có thể sẽ lặp lại mức tăng kỷ lục của năm 2008 (lên gần 23%) và năm 2011 (18,58%), nhất là trong bối cảnh chu kỳ kinh tế 10 năm có thể đang là rủi ro lớn đối với kinh tế Việt Nam. Tuy rủi ro lạm phát trong thời điểm hiện tại đã cao hơn so với thời điểm đầu năm nhưng cũng chưa đến mức tạo ra nguy cơ quá lớn hay có thể tăng mạnh như năm 2008 và 2011. Lý do là tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán các năm gần đây thấp hơn hẳn giai đoạn 2003-2010 (trung bình ở mức 30%).
Thêm vào đó, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có nhiều kinh nghiệm điều hành hơn nên đã có chủ động giới hạn lại tăng trưởng tín dụng ngay từ thời điểm đầu năm nay (chỉ còn ở mức 16 – 17% thay cho mức 18% hồi đầu năm). Sự đi trước mang tính thận trọng của chính sách tiền tệ là một nhân tố mỏ neo, giúp giới hạn lại “kỳ vọng tăng” của lạm phát. Mục tiêu kiểm soát lạm phát trung bình ở mức dưới 4% cho cả năm nay của Chính phủ đã trở nên mong manh và khó khăn hơn nhưng cũng khó xảy ra kịch bản lạm phát sẽ trượt khỏi mục tiêu này ở mức quá xa.