Là một lục địa có nhiều dân tộc, bộ lạc sinh sống nhất thế giới, châu Phi cũng có nhiều kiểu nhà dân gian khác nhau, trong đó ở vùng nông thôn, nơi khí hậu khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, không có máy điều hòa nhiệt độ, là những túp lều bằng đất, gỗ, đá, que quẽ, lợp rơm.
Sở dĩ như vậy vì chỉ có kiến trúc này với cấu tạo tự nhiên mới chịu được nắng mưa, gió bão và nhiều yếu tố cực đoan. Không chỉ thế, nhờ dễ làm, kết hợp, di chuyển, lại rẻ, nhanh, có lợi cho sức khỏe, môi trường, nhiều túp lều mộc mạc vẫn có thể tồn tại lâu bền, bất chấp sự hiện đại hóa, đô thị hóa. Để đi tới đâu, người ta vẫn gặp chúng, và lều trở thành một biểu tượng về vẻ đẹp độc đáo của châu Phi, cũng như tài năng, trí tuệ người dân.
Tuy giản dị, mỗi túp lều luôn là một tác phẩm nghệ thuật có sự đầu tư công sức lẫn tình cảm rất lớn của mỗi người chủ. Do không có máy móc, thậm chí công cụ phổ biến như bào, đục, cưa, cắt, cũng không sẵn vật liệu cùng lúc, thổ dân ở đây, cụ thể là những người du mục, phải tận dụng tất cả những gì họ có xung quanh như bùn, đất, cát, đá, sỏi, que củi, vỏ cây, lá cây, lông chim, da thú, nước hồ, nước mưa, nước tiểu, phân và nhựa của một số loài vật và dùng tay hay phương pháp thủ công để dựng nhà.
Song rất nhanh, chỉ trong khoảng vài ngày, họ đã làm xong một chỗ ở chắc chắn. Nhiều công trình lớn và có sự gắn kết tốt như nhà đắp (nhà đất) có thể chịu được mưa gió, nứt nẻ, kiến mối từ 30 đến 80 năm. Thậm chí nếu lều có yếu, người ta vẫn luôn có cách chống đỡ và hài lòng với nó bởi vì lều là một phần không thể thiếu trong đời sống chăn thả, săn bắn, lang thang trên sa mạc. Ví dụ như người San là một bộ lạc ở miền Đông Congo, hàng ngày phải di chuyển liên tục, nên họ dựng lều siêu giỏi, và có thể mang theo cả lều hay vật liệu khi cần thiết.
Về ý nghĩa văn hóa, lều dân gian châu Phi cũng giữ một vị trí quan trọng trong các phong tục tập quán địa phương. Gọi là lều song nhiều khi chúng là lâu đài, cung điện, nhà thờ hay nơi chôn cất, cũng như tổ chức các lễ hội, cưới hỏi, ma chay… của người dân. Dù to hay nhỏ, giữa lều luôn có một bếp lửa để gia đình, họ hàng, làng xóm quây quần vui vẻ. Và nó không khác gì bất cứ một dinh thự châu Âu tiện nghi nào, thậm chí còn ấm cúng hơn.
Theo huyền thoại Shangaan, lều của người Tsonga còn có thể đem lại hòa bình vì khiến cho tâm hồn trở nên hiền lành, thánh thiện hơn. Chuyện kể rằng, vua Shaka của bộ lạc Zulu (ngày nay ở Nam Phi), muốn thôn tính phương bắc, nên đã sai chiến binh Soshangana đi chinh phục các bộ lạc. Tuy nhiên, khi đến bộ lạc Tsonga (Mozambique), thấy người dân chất phác và những túp lều hình tròn lợp cỏ sơn vẽ đẹp mắt, anh đã quyết định ở lại, cùng xây đắp xứ sở này, rồi thành vua Tsonga, thay vì gây chiến, vơ vét của cải về nước.
Nói chung, mỗi quốc gia châu Phi đều có một số kiểu nhà dân gian đặc trưng. Tiêu biểu ở Ethiopia là lều Dorze của người Dorze, vùng Gemu-Gwefa trên cao nguyên phía nam. Họ từ xưa đã nổi tiếng đan lát khéo tay; ngoài rổ giá, trang phục còn đan tết dựng nhà. Vật liệu là tre và rơm.
Thời gian thi công từ năm đến 22 ngày. Họ bắt đầu dựng lều bằng cáchdùng một cột gỗ to buộc dây, làm compass vẽ một vòng tròn, đường kính từ 7m đến 8m lên đất. Đây chính là bề rộng của căn nhà. Rồi cắm que tre đã chẻ nhỏ đều đặn quanh vòng tròn ấy, cách nhau 10cm. Kế đó dựng đai, đan các thanh ngang vào thanh dọc từ dưới lên trên, cho đến chạm đỉnh. Kết quả là một bộ khung hình búp măng, cao từ 6 đến 8m.
Do tre cắm vào nền đất nhiều năm có thể mục, nên cứ bốn năm gia chủ sẽ cắt ngắn chiều cao của lều đi 20cm nhằm loại bỏ phần oải. Và cứ thế, họ sinh sống đến lúc nào cảm thấy ngôi nhà quá thấp so với nhu cầu trú ẩn và cần xây mới. Chưa dừng lại, thợ xây tiếp tục thêm một mái che có cấu tạo giống mũi hếch lên trên khung lều, ở lều nhỏ thì đơn giản là một cái mũ lưỡi trai áp trên phần cửa che mưa, song ở lều đại thì có thể làm một gian buồng chứa bảy, tám người.
Lều nhỏ thường để trống cửa cổng, nhưng lều lớn sẽ gắn một cánh cửa gỗ, thường khóa từ bên trong. Sau đó, họ lợp rơm, toàn bộ khung sẽ được lợp bằng rơm và măng tre kết hợp. Trong 0,1m2 mái sẽ có khoảng 24 cái măng khô che phủ, và nhờ dai dẻo chống được nhiều điều kiện thời tiết. Tại đỉnh của mái, họ sẽ buộc chéo các thanh tre với nhau, để chúng nhấp nhô như những chiếc lá của một búp tre vĩ đại, theo tín ngưỡng bản địa là biểu tượng của sự an sinh, vững mạnh, phát triển.
- Xem thêm: Đa dạng nhà gỗ cổ truyền Indonesia
Tại đây, cũng treo một cành cây có tác dụng phòng tránh tà ác. Cả công trình thường chỉ cao hai tầng. Tầng một cao 2m, được dùng làm kho chứa, nơi nấu nướng. Chính giữa đặt một bếp lửa và cho khói thoát ra ngoài qua các lỗ thông hơi trên tường và hai lỗ mũi hếch trên. Như đã nói, gia chủ có thể cắt ngắn túp lều một cách dễ dàng như một cái rổ, và chỉ cần đào nó lên khi cần, cũng như di chuyển tùy ý.
Lều Musgum của người Musgum, tỉnh Far North – Cameroon lại một nhà bùn được nén chặt và vuốt tròn tao nhã bởi các nghệ nhân. Do tại địa phương, không có nhiều cây cối lớn, ngoại trừ một số sậy ven sông, nên từ thế kỷ 19, người dân đã lấy sậy, cỏ dựng khung, rồi đắp bùn, vỗ chặt, phơi khô, tạo ra một nơi ở cực kỳ cứng rắn, thoáng mát.
Lều có hình tổ ong, cũng như con sò do trên bề mặt trổ nhiều rãnh gồ ghề tựa vỏ sò. Bước đầu, thợ xây cũng tạo một vòng tròn trên nền đất, song từ đó đắp bùn theo kiểu xoắn ốc lên cao. Vì đặt trực tiếp trên mặt đất, không có móng, để công trình vững chãi, cố định thì chân tường phải đắp rất dày nhưng càng lên đỉnh càng mỏng, hơn thế còn dưới dạng những vòm cung liên tiếp nhằm đảm bảo tải trọng lớn (nặng) song ít vật liệu.
Tuy không có cọc trụ, song mỗi túp lều ngoi rất cao, trung bình từ 3m đến 9m. Vì thế, vừa xây họ vừa phải đắp các đường gân, là những gờ chữ V lộn ngược hoặc sọc thẳng đứt quãng trên tường, đợi chúng khô để dẫm chân lên xây tiếp hoặc sang sửa. Đó cũng là những hoa văn trang trí ngôi nhà, đồng thời là đường dẫn nước mưa, phân tán áp lực của mưa gió lên công trình.
Nhìn từ xa, những túp lều trông như những quả đồi hùng vĩ, nhất là khi chúng tụ hợp thành làng. Không rời rạc như nhiều ngôi nhà, lều ở đây thường tập trung từ năm đến 15 cái và đều thuộc một gia đình. Có nghĩa là họ một lúc có nhiều chỗ trú ẩn, trong đó ít nhất một chỗ cho nam, hai- nữ, một- bếp và một- kho. Tất cả sắp thành vòng tròn, nối tiếp bởi một tường dài khép kín, và chỉ chứa một cổng ra vào, giúp giữ gìn an ninh- trật tự.
Ở đây lúc nào cũng mát dịu, sảng khoái nhờ tường cao, che nắng cùng những hương đất nồng nàn và tiếng gió vui tai thổi từ lỗ tròn trên mái xuống. Lỗ này có tác dụng rất lớn như làm nguội luồng khí nóng, thông hơi đảm bảo sự trong lành trong nhà, tiêu khói- mùi vị khi đun nấu và nếu mưa lũ thì cho phép trèo lên, thoát hiểm.
Đơn thuần chỉ là bùn đất ốp nhẹ, cũng không trang trí mấy, song lều Maasai là một tổ ấm hết sức thú vị của người Maasai, một tộc chiến binh kết hợp du cư, chăn thả tại Tanzania, Kenya và Uganda. Từ xưa, họ rất giỏi chiến đấu, lăn lộn trong sa mạc và đến nay thì nay đây mai đó, dắt những đàn bò dê, cừu đi gặm cỏ ở thung lũng xa. Để phục vụ việc ăn ở mau lẹ, họ đã dựng lên những túp lều thâm thấp, và từ bất cứ từ loại cây cỏ nào bắt gặp.
Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên, nam giới rất ít khi đụng tay xây nhà, mà thường để cho phụ nữ, vợ con làm. Có lẽ bởi nó quá dễ chăng? Và cũng có thể do các quý ông bận công việc. Về đại thể, lều Maasai hay manyatta là một nhà ôvan hoặc tròn, cao khoảng 1,5 m, rộng 3 tới 5 m, đủ cho vài người, với các khu ăn ngủ, cất trữ và thậm chí nuôi nhốt gia súc. Để nhốt gia súc vào đêm, họ sẽ quây rào gai trong nhà tránh thú dữ xâm nhập.
Sau khi gom đủ các loại que củi, người vợ hay con gái sẽ cắm chúng xuống đất, chằng buộc thật dày, rồi trát một hỗn hợp đặc biệt, gọi là bomba gồm nước, bùn, cỏ dại, phân bò, nước tiểu. Kế đó làm nóc cũng bằng que quẽ song mềm, nhỏ hơn và tiếp tục trát bomba, có tác dụng bít kín, chống thấm và kiến mối. Lều thường có hình trứng song thuôn dài, chia thành các gian, vì nhỏ và để tạo sự kín đáo, ở đây rất ít cửa sổ, và phần cổng không nằm chính tâm túp lều, cũng không nhìn thẳng vào nhà, mà được làm lệch ra một bên và bẻ cong, giống chữ L. Tại đó, người lạ phải bước qua rẽ phải hoặc trái mới vào bên trong.
Nội thất thường khá mộc mạc, chỉ có hai giường- một cho cha mẹ và một của con cái… Tuy thấp và nhỏ, lều Maasai luôn mát vào hè, ấm vào đông dựa vào độ dày của vách, tường càng dày càng mát vào những ngày trời nóng nực. Nó được trát bằng phân bò và nước tiểu nhưng thường không xực mùi vì gia chủ thường làm sẵn và để hả hơi trong nắng cháy nhiều ngày mới vào.
Cũng tương tự bằng củi đắp đất, song đã ra dáng một ngôi nhà lớn và có hình nấm là lều Oroma của người Oroma-Kenya. Mỗi ngôi nhà đều có khung gỗ, phủ chiếu cỏ. Đó là cây Danisa non có cành nhánh rất dễ uốn, lá của cây cọ doum và nhiều cỏ đặc hữu. Có đến hai kiểu lều ở đây: bán cầu cao khoảng 2m và tổ ong 6m, với những bộ mái hoặc che phủ toàn bộ hoặc lưng lửng như mũ nấm. Hơn thế, còn có thể nhổ lên, chuyển đi tùy thuộc vào gia chủ. Một điều ấn tượng nữa là người dân không sống lẻ tẻ mà thường lập thành làng, nhỏ nhất cũng từ 10 đến 30 túp lều.
Vừa là nhà đất khang trang, cái tròn, cái vuông-chữ nhật, có mái bằng hoặc mái lá, vừa là một gallery ngoài trời trưng bày những bích họa sặc sỡ, là lều Gurunsi của người Gurunsi-Burkina Faso. Nhìn những bức tranh trên tường nhà họ, ai nấy đều có cảm tưởng như bước vào thế giới tranh khắc, vẽ thành động cổ xưa hàng nghìn năm, do có những nét vẽ rất mộc mạc, và thiên về các con vật. Cũng như người Musgum sau khi làm nhà bùn, với những vách tường cực kỳ dày dặn, phụ nữ Gurunsi cũng trang trí cho nó, nhưng bằng nhiều màu sắc, hình vẽ có tính tương phản và tái lặp như một chu kỳ cuộc sống, trong đó mượn nhiều họa tiết từ trang phục, và tùy cảm hứng cũng như diện tích mặt tường mỗi người sáng tác rất khác nhau, thành thử mỗi ngôi làng Gurunsi như một bảo tàng về đa dạng bản sắc văn hóa.
Ngoài ra, còn thấy nhiều túp lều ấn tượng nữa dưới những hình dạng, màu sắc. họa tiết nổi bật trên nền sa mạc, ví dụ như lều Basotho, Ndebele và Zulu (Nam Phi), Gabbra và Turkana (Kenya), Borana (Ethiopia), Dogon (Mali), Lunda (Congo) và Tonga (Zimbabwe)…