Tình cờ biết về chuyến đi của GS. Nguyễn Đăng Hưng và các thân hữu đến Iran – vùng đất nổi tiếng thế giới bởi những di tích khảo cổ và lịch sử – tôi vội vàng liên lạc với Giáo sư và được ông nhiệt tình chỉ dẫn cách thức đăng ký thủ tục… Sau thời gian dài hồi hộp chờ đợi visa, cuối cùng đoàn chúng tôi đã lên đường đến vùng đất của xứ sở Ba Tư kỳ diệu ngàn năm trước.
Chuyến đi này đoàn chúng tôi gồm 20 thành viên đến từ ba miền Trung Nam Bắc, có cả người định cư ở nước ngoài, làm nhiều ngành nghề khác nhau nhưng có cùng mục đích: viếng mộ ngài Alexandre de Rhodes và khánh thành bia tri ân người có công lao đặc biệt trong việc hình thành chữ quốc ngữ. GS. Nguyễn Đăng Hưng là người khởi xướng và tổ chức hoạt động văn hóa có ý nghĩa đặc biệt này.
Trên chuyến bay dài hơn mười tiếng của hãng Hàng không Thổ Nhĩ Kỳ, tôi tranh thủ xem lại lịch sử hình thành chữ quốc ngữ và vai trò của “Cha Đắc Lộ” (1591 – 1660): “Alexandre de Rhodes (phiên âm Hán Việt là A Lịch Sơn Đắc Lộ) sinh ngày 15.3.1591, là một nhà truyền giáo Dòng Tên và một nhà ngôn ngữ học người Avignon (Pháp). Ông đã góp phần quan trọng vào quá trình truyền bá Công giáo tại Việt Nam và việc hình thành chữ quốc ngữ.
Tác phẩm ông biên soạn, Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Từ điển Việt-Bồ-La), xuất bản tại Rôma năm 1651 đã hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự Latinh. Ông qua đời ngày 5.11.1660 tại thành phố Isfahan, Iran, sau 15 năm chính thức bị trục xuất khỏi Việt Nam”.
Sau 5 giờ chờ đợi quá cảnh tại sân bay Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) rộng lớn và hiện đại, chúng tôi tiếp tục chuyến bay sang Tehran. Thủ đô Cộng hòa Hồi giáo Iran đón chúng tôi bằng thời tiết se lạnh trong buổi chiều nắng rực rỡ. Chiếc xe buýt rất đẹp và tiện nghi đưa chúng tôi đi xuyên qua thành phố. Trên đường đi ngoài sự ngỡ ngàng vì cảnh quan sạch đẹp, bình yên, Tehran còn làm tôi ngạc nhiên vì những kiến trúc hiện đại hòa hợp với nghệ thuật Hồi giáo truyền thống. Tiêu biểu là công trình tháp Azadi (Tháp Tự do) – tượng đài tại quảng trường Azadi.
Tháp cao khoảng 45m và được phủ hoàn toàn bằng 8.000 khối đá cẩm thạch trắng, do kiến trúc sư người Iran thiết kế và xây dựng vào năm 1971 để kỷ niệm năm thứ 2.500 của nhà nước Hoàng gia Iran, sau cách mạng 1979 được đổi tên thành Azadi.
Rời quảng trường Azadi chúng tôi đến sân bay nội địa Mehrabat để đi Shiraz, thành phố nằm ở phía Tây Nam của Iran, nơi từ ngàn năm trước đã là một trung tâm thương mại lớn. Shiraz từng được mệnh danh “thủ đô văn hóa Ba Tư”, ngày nay còn lưu lại những địa điểm nổi tiếng như vườn Eram, Shah Cheragh, thánh đường Hồi giáo Nasir-al-molk, Hafezie…
Cách trung tâm thành phố Shiraz khoảng 70km về phía đông bắc là khu di tích khảo cổ học Persepolis – di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 1979. Đấy là một thánh địa của đế quốc Ba Tư tồn tại khoảng năm 550 đến năm 330 trước công nguyên. Phế tích còn lại của “kinh đô tôn giáo” Persepolis nằm giữa một thung lũng rộng lớn, được cấu trúc thành nhiều địa hình cao thấp khác nhau. Vật liệu xây dựng chủ yếu bằng đá, nổi bật là những hàng cột cao vút, những trụ cổng điêu khắc sư tử, những hành lang, bậc thang dài chạm khắc hàng dài người hành lễ…
Khu di tích gồm những cụm di tích khác nhau, phần lớn đã được khai quật, bảo tồn và bảo quản để phục vụ khách tham quan. Đây đó vẫn có những chiếc lều vải và máy móc vì các nhà khảo cổ học vẫn đang miệt mài làm việc. Tại đây còn có một bảo tàng trưng bày hàng ngàn hiện vật thu nhặt rải rác khắp nơi… Tôi như lạc vào một thành phố sầm uất khi trước mắt trải ra những con đường lát đá rộng lớn, những cổng đá cao vút, và hàng ngàn chân cột thẳng hàng ngay lối cho biết hàng chục công trình đồ sộ từng sừng sững nơi đây… Có lẽ không chỉ kim tự tháp ở Ai Cập mà thời gian cũng phải ngần ngại trước sự tồn tại đầy kiêu hãnh của phế tích này!
Nhưng mục đích chính của chuyến đi vẫn còn phía trước. Chúng tôi tiếp tục lên đường đến thành phố Isfahan. Hơn 5 giờ xe chạy giữa vùng đất tựa như hoang mạc lọt thỏm giữa những dẫy núi cao, trên đường cao tốc thỉnh thoảng có vài chiếc xe tải, hiếm xe khách, xe hơi nhỏ, hầu như không thấy thị trấn, làng xóm ven đường. Cho đến khi trời sẩm tối nhờ ánh đèn điện có thể nhận biết vài thị trấn, khu dân cư ở phía xa xa…
Isfahan là một thành phố cổ và thủ đô của Ba Tư từ năm 1598 đến năm 1722. Nằm ở miền trung Iran, giữa các tuyến đường giao thông chính Bắc – Nam, Đông – Tây, từ nhiều thế kỷ trước Isfahan được coi là một trong những thành phố đẹp nhất trên thế giới, nổi tiếng bởi nghệ thuật dệt thảm và đồ mỹ nghệ bằng bạc, bằng kim loại tráng men màu… Hiện nay, Isfahan là thành phố có kiến trúc hiện đại bên cạnh nhiều kiến trúc cổ được bảo tồn rất tốt. Trong thành phố, các đại lộ rợp bóng cây xanh, quá trình đô thị hóa và mở rộng thành phố từ nhiều năm nay khiến nó trở thành một trong bốn trung tâm kinh tế – văn hóa lớn của Iran.
Đúng ngày 5.11.2018 – ngày giỗ lần thứ 358 của Alexandre de Rhodes – chúng tôi đến viếng và khánh thành bia tri ân tại mộ của ngài. Phần mộ nằm ở khu nghĩa địa của người Armenia được xây dựng đã 500 năm nay ở ngoại ô thành phố Isfahan. Giữa nghĩa địa rộng gần 300.000m2 và thoáng đãng như một công viên lớn, ngôi mộ của Cha Đắc Lộ giản dị đánh dấu bằng một phiến đá lớn có khắc tên ngài và được chăm sóc chu đáo như tất cả những ngôi mộ xung quanh. Hơn 350 năm ngài đã nằm lại nơi này giữa cộng đồng người Armenia, những người anh em cùng tôn giáo.
Nhờ công tác chuẩn bị chu đáo của GS. Nguyễn Đăng Hưng, nhà báo Nguyễn Bích Thủy và các thành viên trong đoàn nên buổi lễ đã diễn ra trang nghiêm, xúc động và đầy đủ các thủ tục cần thiết. Tham dự buổi lễ có một số vị khách địa phương: đại diện cộng đồng Hồi giáo tại Isfahan – cộng đồng chủ quản, đại diện cộng đồng cơ đốc giáo Armenian, đại diện nhà thờ quản lý nghĩa trang, đặc biệt có cả gia đình ông Hojat là hướng dẫn viên – người đã giúp GS. Hưng đi tiền trạm trước đó để làm các thủ tục với địa phương về việc đặt bia và tổ chức lễ tưởng niệm tại đây.
Các thành viên nữ trong trang phục áo dài truyền thống cùng các thành viên nam trong trang phục chỉnh tề, đứng quanh ngôi mộ Alexandre de Rhodes. Lời tri ân rất cảm động của GS. Nguyễn Đăng Hưng, những lời phát biểu chân thành của các vị khách địa phương, rồi lời ca đầy cảm xúc “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời…” của anh em trong đoàn vang lên cùng tiếng hàng thông reo vi vu trong nắng thu ấm áp… Hương trầm thơm ngát, những bông hoa hồng ba màu vàng, đỏ và xanh lần lượt được đặt lên mộ Cha Đắc Lộ thể hiện tấm lòng thành của những người Việt, ghi nhớ công lao của một trong những người quan trọng nhất trong hành trình sáng tạo loại chữ viết mà ngày nay chúng ta sử dụng.
Từ nơi đây tôi nhớ về Sài Gòn, nơi từ trước năm 1975 đã có một con đường nhỏ mang tên Alexandre de Rhodes, con đường rợp bóng cây xanh kế bên công viên trung tâm thành phố. Đối diện bên kia là một con đường nhỏ xinh như vậy mang tên Hàn Thuyên, người được cổ sử ghi nhận là giỏi thơ Nôm và có công với chữ Nôm của Việt Nam. Hành trình chữ viết là một trong những hành trình đi vào văn minh của nhân loại. Nhờ công lao của bao vị tiền nhân, bằng chữ Hán, chữ Nôm, đặc biệt là từ thế kỷ XVII với sự ra đời của chữ quốc ngữ, đất nước ta may mắn đã được tham dự vào một đoạn đường quan trọng của hành trình ấy.