Thời gian gần đây, rất nhiều ngân hàng lớn đã đẩy mạnh phát hành trái phiếu với quy mô lớn, lên đến hàng nghìn tỉ đồng. Trước hết phải kể đến đợt phát hành trái phiếu của BIDV.
Theo đó, ngân hàng phát hành tổng cộng 400.000 trái phiếu với hai loại kỳ hạn là bảy năm và 10 năm. Tổng khối lượng vốn cần huy động qua trái phiếu này là 4.000 tỉ đồng. Lãi trái phiếu sẽ được BIDV thanh toán sau, định kỳ vào ngày tròn năm so với ngày phát hành trái phiếu. Lãi suất áp dụng cho toàn bộ 4.000 tỉ đồng trái phiếu nói trên là lãi suất thả nổi và được xác định theo công thức: Lãi suất trái phiếu kỳ hạn bảy năm sẽ là lãi suất tham chiếu cộng thêm 0,8%/năm; lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tính theo lãi suất tham chiếu cộng 1%/năm. Lãi suất tham chiếu được ngân hàng tính toán dựa trên trung bình cộng lãi suất tiền gửi tiết kiệm cá nhân bằng VND trả sau cho kỳ hạn 12 tháng hoặc tương đương của bốn ngân hàng BIDV, VietinBank, Vietcombank và Agribank công khai trên website chính thức.
Không riêng BIDV, mới đây hàng loạt ngân hàng khác cũng đã phát hành trái phiếu để bổ sung nguồn vốn trung dài hạn. Chẳng hạn Vietcombank đã hoàn tất sáu đợt phát hành trái phiếu kỳ hạn sáu năm với tổng khối lượng khoảng 550 tỉ đồng, lãi suất 7,475%/năm. BIDV có bốn đợt phát hành thành công với tổng cộng hơn 1.000 tỉ. Ngân hàng MB phát hành thành công trái phiếu kỳ hạn năm năm một ngày với trị giá hơn 1.400 tỉ đồng. VIB phát hành trái phiếu thành công, huy động được 2.800 tỉ đồng.
Tình trạng “khát” vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng đang thể hiện rõ rệt trong những tháng cuối năm – mùa kinh doanh sôi động nhất. Ở các ngân hàng lớn, dù vẫn là nơi thu hút tiền gửi nhiều nhất song thanh khoản vẫn đâu đó có tín hiệu căng thẳng trong thời gian gần đây. Tốc độ tăng trưởng huy động tiền gửi của BIDV, VietinBank, Vietcombank trong chín tháng đầu năm nay lần lượt là 10,9%, 9,7% và 9,2% – đều thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng tín dụng (lần lượt là 11,5%, 11,9% và 15,1%). Chưa kể tại BIDV, phát hành giấy tờ có giá giảm mạnh 33% so với đầu năm, chủ yếu do chứng chỉ tiền gửi đáo hạn. Thiếu nguồn vốn huy động, các “ông lớn” đã phải gia nhập nhóm cạnh tranh lãi suất, nhưng dường như chưa đủ nên phải huy động lượng lớn trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn.
Về cơ bản, việc các ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu thời gian gần đây có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, những trái phiếu kỳ hạn dài thì có thể tính vào vốn cấp 2 của ngân hàng, từ đó làm tăng vốn tự có, giúp cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR) đang khá là thấp, đặc biệt là ở nhóm ngân hàng lớn. Quy định hệ số an toàn vốn hiện nay là 9% nhưng trong tương lai sẽ kéo xuống còn 8%, khi thông tư 41 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có hiệu lực từ năm 2019.
Theo số liệu của NHNN, đến cuối tháng 5-2018, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của nhóm ngân hàng thương mại nhà nước đã xuống khá thấp, ở mức 9,39%. Thứ hai, các ngân hàng phải huy động vốn trung và dài hạn nhiều hơn nữa vì theo quy định của Thông tư 16/2018/TT-NHNN, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn sẽ giảm từ 45% xuống còn 40% kể từ năm 2019. Theo đó, phát hành trái phiếu là một giải pháp để gia tăng nguồn vốn trung và dài hạn, giúp các ngân hàng nhanh chóng đáp ứng tỷ lệ trên.
Mặc dù việc phát hành trái phiếu kỳ hạn dài sẽ giúp các ngân hàng giải quyết được một số vấn đề cấp bách hiện tại, tuy nhiên trong tương lai sẽ phải đối mặt với không ít áp lực gây ảnh hưởng tới lợi nhuận. Trong đó có rủi ro về lãi suất, vì huy động vốn trung và dài hạn thường có lãi suất cao. Ngoài ra, việc phát hành trái phiếu nhằm tăng vốn cấp II của các ngân hàng cũng chỉ là giải pháp mang tính “tình thế”.
Muốn cải thiện tỷ lệ an toàn vốn một cách căn cơ, đảm bảo quy định về tiêu chuẩn Basel II, các ngân hàng bắt buộc phải tăng vốn cấp 1. Mặc dù thời gian gần đây, BIDV, Vietcombank và cả VietinBank đều có những bước tiến tích cực cho việc tăng vốn nhưng quá trình này sẽ khó hoàn tất trong một sớm một chiều. Do vậy, việc gấp gáp phát hành lượng lớn trái phiếu thời gian gần đây chủ yếu nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách về vốn trong ngắn hạn.