Một trong các họa sĩ Pháp vẽ tranh đề tài Việt Nam nhiều nhất là Jean Despujols mà tên tuổi còn khá xa lạ với lịch sử mỹ thuật nước ta. Bộ sưu tập đồ sộ và quý giá gồm 360 tác phẩm sơn dầu, màu nước và ký họa được ông vẽ trong những năm xê dịch khắp cõi Đông Dương nay thuộc sở hữu của Bảo tàng Mỹ thuật Meadows trong khuôn viên Đại học Centenary của bang Louisiana, nơi ông đã định cư cùng gia đình từ sau Thế chiến II và sống ở đó đến những ngày cuối của một cuộc đời ngoại hạng, trải qua bao biến cố lớn.
Sinh năm 1886 tại thị trấn Salles thuộc tỉnh Gironde trong vùng Aquitaine ở tây nam nước Pháp, đến tuổi trưởng thành Jean Despujols theo học Trường Mỹ thuật Bordeaux và là môn đệ của họa sĩ Paul Quinsac (1858-1919), tác giả nổi tiếng với tranh vẽ các chủ đề thần thoại, ngụ ngôn, nhân vật lịch sử và tranh phong cảnh. Năm 1910, chàng họa sĩ trẻ đoạt giải thưởng mỹ thuật của thành phố Bordeaux, nơi hiện lưu giữ tác phẩm của ông trong nhiều bảo tàng. Rồi Jean Despujols lên Paris, tiếp tục theo đuổi việc học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Quốc gia, trung tâm đào tạo mỹ thuật danh tiếng nhất nước Pháp. Chính ở đây, vào năm 1914 ông hoàn thành một bức tranh lớn về Đức Mẹ Maria, nhờ đó mà giành được giải thưởng Khôi nguyên La Mã về hội họa cùng một chuyến đi sang Roma để nghiên cứu mỹ thuật. Thế nhưng chỉ một tuần trước khi Despujols sang Ý nhận giải thì Thế chiến I nổ ra, Đức tuyên chiến với Pháp.
Tháng 8-1914, Despujols phải nhập ngũ và ra chiến trường. Ông trở thành xạ thủ súng máy, có mặt ở hầu hết các trận chiến ác liệt nhất trong suốt bốn năm khoác áo lính. Dù trong chiến tranh thiếu thốn mọi mặt, kể cả giấy để vẽ nhưng Despujols vẫn luôn ký họa khi có thể: ông vẽ trên mặt sau những lá thư và cả những mảnh giấy vụn nhặt được mà sau này được in thành Tập vẽ nháp Thế chiến I. Những ký họa chiến trường đó còn trở thành những minh họa cho tập nhật ký với tựa Người trong trận đánh nhưng chưa được xuất bản. Chiến tranh kết thúc, Despujols lại sang Ý hưởng thành quả từ giải Khôi nguyên La Mã. Ông trở về Pháp năm 1924, được mời giảng dạy hội họa cho các sinh viên Mỹ du học tại Trường Mỹ thuật Fontainebleau. Đó cũng là mối liên hệ đầu tiên của ông với nước Mỹ mà sau này ông nhập quốc tịch, trở thành công dân Hoa Kỳ. Những năm 1924-1936 là thời kỳ Despujols hoạt động mạnh mẽ, gặt hái nhiều thành công tại các triển lãm ở Paris. Bức Trầm tư ông vẽ năm 1929 được mua với giá 50.000 franc, còn bức Thời khắc của mục đồng đoạt huy chương vàng của Hội Mỹ thuật Pháp. Ông còn giành được nhiều giải thưởng danh giá khác.
Năm 1936, Jean Despujols đoạt giải mỹ thuật Đông Dương và được Hội đồng kinh tế Đông Dương thuộc Pháp chọn để thực hiện một hành trình nghệ thuật qua ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, ký họa và vẽ tranh về cuộc sống, cảnh sắc và con người ở các xứ sở này. Tháng 8-1938, từ cảng Hải Phòng ông xuống tàu trở về Pháp. Sau một thời gian ngắn sống ở Hawaii, ông cùng với người vợ Mỹ Millicent Martin và hai con đến sống ở Minneapolis, bang Minnesota. Tháng 7-1939, Despujols trở lại Pháp để hoàn tất bộ tranh về Đông Dương dự tính sẽ triển lãm tại Paris, thế nhưng một lần nữa chiến tranh lại “phá bĩnh” kế hoạch của ông. Bộ tranh được ông cất giấu tại lâu đài của gia đình và đến năm 1948 được ông đưa sang Mỹ. Despujols đã định cư cùng gia đình ở bang Louisiana từ lúc nổ ra Thế chiến II cho đến khi qua đời năm 1965. Trong hai mươi năm sống ở Mỹ ông không ngừng sáng tác trong xưởng vẽ của ngôi nhà riêng ở đại lộ Broadmoor, thành phố Shreveport, Louisiana. Cũng tại đây, ông đã hoàn thành bộ sách tám tập Cuộc du hành của một người trốn chiến tranh (Voyage d’un réfractaire) cho tới nay chưa được ấn hành, dù đây không chỉ là một tư liệu hết sức quan trọng cho thấy những suy nghĩ của họa sĩ về cuộc đời mà còn bởi hàng trăm minh họa trong đó.
Năm 1969, doanh nhân triệu phú ngành dầu khí ở bang Texas là Algur H. Meadows, từng tốt nghiệp ngành luật tại Đại học Centenary năm 1926, đã mua toàn bộ 360 tác phẩm trong bộ sưu tập tranh Đông Dương của Jean Despujols với giá rất cao lúc đó là 250.000 USD. Sau đó ông tặng lại cho Đại học Centenary, từ đó Bảo tàng mang tên Meadows được xây dựng để trưng bày bộ sưu tập tranh mà Jean Despujols đã vẽ trong thập niên 1930 khi du hành khắp Đông Dương. Ngoài những cảnh và người ông quan sát thấu đáo để đưa vào tác phẩm, Jean Despujols còn vẽ một chân dung tự họa độc đáo theo phong cách hội họa hàn lâm Pháp khi ông đang ở chặng cuối của hành trình dài. Bức tự họa thể hiện một lữ khách phiêu lưu, đầu đội nón cối trắng đặc trưng của người Pháp tại Đông Dương và chiếc tẩu thuốc trên tay, chung quanh là cảnh núi non hùng vĩ của vùng cao Tây Bắc Việt Nam.
Dù bộ tranh Đông Dương được Jean Despujols vẽ với nhiều đề tài: phong cảnh, tĩnh vật, con người song trội bật hơn cả là những chân dung phụ nữ. Ở Việt Nam, ông vẽ các cô gái ba miền Bắc – Trung – Nam với sự khác biệt không chỉ ở trang phục mà còn về diện mạo, hình thể do các đặc điểm khí hậu vùng miền rất khác nhau. Trong tranh Despujols, cô gái Bắc tóc vấn khăn có khuôn mặt to hơn, dáng cứng cáp hơn so với người chị em sống ở vùng đất gần xứ Huế có xương nhỏ nhắn hơn, còn xuôi về Nam là “những cô gái mảnh mai, mặc quần và áo dài may sát người” như nhận định của W. Robert Moore và Maynard Owen Williams về bộ tranh Đông Dương đăng trên tạp chí National Geographic tháng 4-1951. Tương tự là sự khác biệt của các cô gái dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc được Despujols mô tả trong tranh. Cũng theo hai tác giả trên “tranh sơn dầu, màu nước và ký họa của ông thấm đẫm bầu không khí của núi rừng Đông Dương ẩm thấp, những con đường uốn khúc len lỏi giữa các đồng lúa loáng nước như một tấm gương và các vách đá lởm chởm, cùng lúc phác họa chân dung người dân của nhiều tộc người quần tụ tại phần đất này của Đông Nam Á”.
Cần nói thêm, trước khi được Despujols đưa đến thành phố Shreveport năm 1948, bộ tranh Đông Dương từng được triển lãm tại Hà Nội và Sài Gòn năm 1938. Sau đó bộ tranh còn được trưng bày tại Bảo tàng Smithsonian ở Washington D.C. năm 1952 và tại Bảo tàng M.H. de Young Memorial năm 1952. Đây cũng là bộ sưu tập tranh Đông Dương quan trọng nhất, lớn nhất kể từ khi các họa sĩ Pháp sang vùng đất này để sáng tác thời kỳ thuộc địa.