Tiểu thuyết có cái tên mênh mang “Trong vô tận” đã buộc tôi đọc chậm. Và đọc lại, ngay sau lần đầu. Điều gây “mùi nhớ” dai dẳng, quyến rũ cái đọc “Trong vô tận”, là giọng kể thâm trầm, đong đầy suy tưởng, miên man hồi cố và chiêm nghiệm thấm thía thế sự lịch sử, chan hòa thế sự đương thời.
Với tôi, điều gây “mùi nhớ” dai dẳng, quyến rũ và lôi cuốn cái đọc tiểu thuyết Trong vô tận, chính là giọng kể thâm trầm, đong đầy suy tưởng, miên man hồi cố và thấm thía chiêm nghiệm thế sự lịch sử, chan hòa thế sự đương thời, của chủ thể tiểu thuyết Vĩnh Quyền.
Được thiết kế trên một cấu trúc tiểu thuyết độc đáo, giọng kể này đã luân hồi chuyển hóa qua hơn một nhân vật “Tôi”, thành nhiều hơn một “Tôi”.
Bởi thế, Vĩnh Quyền đã làm được cử chỉ kép: nới rộng kinh thành Huế, thành hơn một kinh thành. Huế, và đã thành không gian mênh mang đến… vô tận. Song, dù muốn đến đâu, Vĩnh Quyền vẫn phải tự chế định cái chủ đề “vô tận” của mình, trong cấu trúc một tiểu thuyết ngắn, 245 trang.
Tôi bỗng thấy mình bị cuốn theo cuộc chơi cấu trúc tiểu thuyết độc đáo của Vĩnh Quyền. Một cấu trúc ly kỳ lắt léo, chồng chất sấp ngửa, phi lý ngược xuôi xoay vần trong cài đặt thời gian – không gian. Đường tuyến tính thời gian nối quá khứ – hiện tại – tương lai bất ngờ bị đứt gẫy. Không gian Hà Nội – Huế – Sài Gòn từ Việt Nam, đến Nhật, Pháp, Mỹ bị đảo chiều, nhảy cóc, xô lệch, chỉ cốt chiều theo duy nhất sự xiêu lạc, giằng xé ngổn ngang của nội tâm, chất chứa “mọi cõi đi về”, trong hố thẳm tiềm thức của các nhân vật Tôi, bỗng dưng thành tha nhân của chính mình… trong vô tận.
Tôi – người – đọc, bỗng nhiên bị ham thích cách kể chuyện nương theo cấu trúc tiểu thuyết độc đáo này của Vĩnh Quyền, có lẽ ngay từ khi đọc cái tên có vẻ mông lung mịt mờ tăm tích của nó: Trong vô tận. Hóa ra, cái neo vào vô tận lại chính là cái tôi của nhà tiểu thuyết, đã được định vị trong… vô tận. Vì lẽ ấy, sự vô tận đến phi giới hạn của vũ trụ, đã được người – văn – chương giới hạn trong tiểu thuyết, trên cơ sở triết lý về văn hóa Đông -Tây. Lý lẽ văn hóa phương Đông, chẳng phải đã đặt con người vào vị thế trung tâm vũ trụ, trong bộ ba tam hợp Thiên – Địa – Nhân đấy sao? Và chính con người chẳng phải đã được coi là tiểu – vũ -trụ, nằm lọt trong/ hoặc là chính giữa đại vũ trụ bao la của cặp đôi gốc Thiên – Địa (Trời – Đất) đó sao?
Bởi vậy, tôi thích cái cảm giác rợn ngợp của các nhân vật “Tôi” trong thành phố Huế, họ đã không hạn định thế giới tiềm thức của mình ở Huế, và chỉ chịu khuôn mình trong ngôi nhà vườn – biệt phủ đặc Huế xưa, mà đã tháo cởi sự hữu hạn này, phóng chiếu lên cảm giác cao vời vợi của con người nói chung, đặng đạt tới sự cô đơn không bến bờ (hay có thể gọi theo cách thơ của thi sĩ Đặng Đình Hưng là “sự cô đơn toàn phần”) của chính mình trong vũ trụ. Và, con người, không cô đơn trong vũ trụ thì cô đơn ở đâu, không lẽ chỉ “cô đơn trên mạng” như tên một tiểu thuyết khác?
Và ngay trong cô đơn độc trọi này, khi đạt đến, lại cũng hàm chứa một cô đơn đôi, không còn đơn – chiếc – một – mình – mình nữa. Như ai đó ở phương Tây từng triết lý (không vụn): Không cô đơn nào lại có thể hơn sự cô đơn của hai kẻ yêu nhau. Mà người đời lại hay lầm tưởng yêu nhau là sự ghép lại thành một, của hai nửa, nửa nọ phải tìm bằng được nửa kia, để kết đôi hạnh phúc. Có lẽ Vĩnh Quyền không thích sự lắp đặt “hai nửa thành một” theo truyền thống này, và đã đẩy lên thành “cô đơn đôi”?
Và sự “cô đơn đôi” này là chẳng đặng đừng, là không tránh khỏi, chẳng thể từ khước, đã thầm lặng thấu suốt các cặp tình Trong vô tận. Xuyên thấu từ nghĩa hiển minh lẫn nghĩa lặn chìm trong con chữ tiểu thuyết của Vĩnh Quyền, khi miêu tả tình yêu truyền đời, truyền kiếp, xuyên suốt một dòng tộc đế vương, trải qua 5 thế hệ ở kinh thành Huế. Chữ tiểu thuyết của Vĩnh Quyền, vì vậy, đã rất đẹp và đẹp rất Huế. Những nhân vật nữ Trong vô tậnthật ấn tượng. Họ chính là những khoảnh khắc/ những nơi chốn/những mảnh tình riêng, đã nấn níu, đã yêu đầm đìa thương nhớ, mãnh liệt như giông gió, như lũ lụt, khiến vô tận bỗng trở nên hiện hữu.
Đấy quả là một nghiệm sinh rất thú vị của người – đọc – tôi, với tiểu thuyết “Trong vô tận”, và đặc biệt, với trò chơi cấu trúc rất hiện đại của nhà viết tiểu thuyết Vĩnh Quyền.
***
Được nhận là bạn văn chương, tôi đã không đừng được, phải viết cho Vĩnh Quyền một tin nhắn, hình như vào cuối tháng 4.2020, sau đọc lần đầu Trong vô tận: “Tiểu thuyết của Mệ đọc rất thích. Giọng kể lạ, chuồi theo điểm nhìn di chuyển bất ngờ và phiêu diêu qua nhiều địa danh, sự kiện, tình huống kỳ lạ và qua nhiều hơn một nhân vật Tôi. Song mặc lòng, giọng kể có vẻ khơi khơi này đã hàm chứa, hay đã đổ đầy một nặng chìm: đó là tâm trạng của chủ thể viết tràn bờ sang tâm trạng/tâm thế của các nhân vật Tôi. Và từ đây, có vẻ như trái ngược, ngôn ngữ điện ảnh hữu thể đã hiện lên rất NET trên con chữ văn chương phi vật thể của tiểu thuyết. Tôi dấy lên ngẫu hứng: chuyển tiểu thuyết này sang ngôn ngữ phim truyện điện ảnh thì hay biết mấy. (Bởi trong chính nó đã hiện hữu và hàm ngôn một kịch bản điện ảnh dào dạt bi hùng, đầy thương cảm mộng mị, về sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quang Phục Hội tại Huế đầu thế kỷ XX)”.
Sau tin nhắn của tôi, Vĩnh Quyền cũng ngẫu hứng gửi tôi qua gmail hai bài bình luận khá đích đáng về tiểu thuyết của mình: một bài của TS. Nguyễn Thị Tịnh Thy: Tìm “Trong vô tận”… Yêu trong vô tận”.
Tịnh Thy đánh giá văn chương tiểu thuyết của Vĩnh Quyền khá tinh tường. Cũng nhờ đấy mà tôi biết tác giả mang dòng máu hoàng tộc trong cố đô Huế: hoàng thân Nguyễn Phước Vĩnh Quyền, được bạn bè gọi thân mật là Mệ. Tịnh Thy nhận thực: Huế trong tiểu thuyết Vĩnh Quyền là xứ Huế không “cố làm cho ra vẻ Huế”, mà “là cái duyên Huế không huê dạng, không ai bắt chước được của “Mệ” Vĩnh Quyền”.
Đọc Trong vô tận, Tịnh Thy thâu nhận nhiều thông điệp nặng lòng về tình người, tình yêu của xứ Huế. Và lớn nhất là sự “tiếc nuối thời hoàng kim một đi không trở lại của xứ Huế kiêu sa”. Về nghệ thuật viết tiểu thuyết, Tịnh Thy thấy điều đáng nói nhất là sự “điều binh khiển tướng trong chiến lược tự sự độc đáo” của tác giả, bởi đã tránh được một lỗi rất hay bị mắc trong tự sự học: thay vì “kể như thế nào”, bằng “kể cái gì”. (GS. Hoàng Ngọc Hiến đã khởi xướng ý kiến này).
Tuy nhiên, Tịnh Thy vẫn thấy đáng tiếc Trong vô tận: “Giá như tác giả bớt ôm đồm về đề tài, xử lý mềm mại hơn về phép liên kết ngầm trong nội dung tiểu thuyết, thì tác phẩm sẽ tránh được một số chỗ lắp ghép khiên cưỡng, tinh túy của chủ đề cũng sẽ nổi bật hơn”. Tôi trộm nghĩ, lẽ nào khi đánh giá: Vĩnh Quyền đã giải được bài toán khó về phép tự sự cho tiểu thuyết của mình, thì Tịnh Thy lại tự mâu thuẫn, khi vẫn cho tác giả đã ôm đồm, đã lắp ghép, chủ đề chưa nổi bật sự tinh túy?…
Ý kiến tôi ngược chiều. Trong vô tận chỉ dồn nén, không lắp ghép. Nó chính là dòng ý thức triền miên trôi trong sự mềm mại như không của nước/ hay nói như dân gian “máu chảy ruột mềm”. Trong vô tận không thừa cái gì, bởi tiểu thuyết đã được tác giả nén chặt trong một lát cắt rất ngọt của vô tận. Nó đã “vô tận hóa” thời gian 10 ngày, người con trai kịp từ Mỹ trở về, lần đầu gặp và ở bên người cha hấp hối. Và cũng “vô tận” luôn cái không gian nhà vườn – vương phủ quạnh hiu, buồn thênh ở kinh thành Huế, nơi ở của dòng tộc vương giả, đã trải mấy thế hệ sống – chết trong đó! Và không hề ngẫu nhiên, Vĩnh Quyền đã đề từ cho tiểu thuyết của mình, một câu hỏi hư vô: Trong vô tận song song gặp nhau? khiến tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ xa lắc của thi sĩ Chế Lan Viên: Ta là ai như ngọn gió siêu hình/ Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt…
Liên tưởng dẫn dụ tôi nghĩ: Không tìm được giọng kể tiểu thuyết chứa chan, tràn bờ từ dòng chảy ý thức của cả hai cha con nhân vật chính, trong bất chấp sự phi lý đến phi logic như thế, thì Vĩnh Quyền đâu có thể chơi được trò chơi cấu trúc lạ biệt, liên kết nhiều mảnh vỡ buồn trầm tím lịm màu Huế và long lanh sắc thái Huế đến thế? Và đương nhiên, đã không thể có tiểu thuyết Trong vô tận.
Ấy là tôi nghĩ. Dù không chắc được sẻ chia.
Nỗi buồn sâu như vực thẳm ở đáy tiểu thuyết Trong vô tận, phải chăng đã ngậm được nỗi đau của trí thức Việt, và cũng chính là tuyên ngôn lấp lánh trí tuệ của tiểu thuyết này, khi nó muốn chuyên chở một thông điệp cốt lõi: Việt Nam đã từng là một cường quốc của Đông Á. Tôi đã thích không chỉ mệnh đề hào sảng ấy Trong vô tận, có lẽ vì đọc được nhiều điều ở giữa chữ và chữ. Chữ tiểu thuyết của Vĩnh Quyền rất đẹp và đẹp rất Huế. Lại nhớ Thu Bồn ngẫm ngợi về sông Hương “sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Nhớ Văn Cao như phải lòng thiếu nữ Huế, khi chia biệt: “Sao nhớ nhung hoài vạt áo xanh”. Và Trịnh Công Sơn Thương một người con gái Huế, “đôi vai gầy ướt mềm”, nhẹ chân đi về con ngõ vắng bên Thiền viện Huế “đêm nay ướt ánh trăng”…
Tôi muốn hối thúc: “Làm phim điện ảnh đi Vĩnh Quyền! Mấy nhân vật đàn bà Huế, cả không Huế của Mệ Trong vô tận thật ấn tượng. Họ chính là những khoảnh khắc/ những nơi chốn/ những mảnh tình riêng, đã nấn níu, đã yêu đầm đìa, chói chang, như giông gió, như lũ lụt, khiến vô tận trở nên hiện hữu với đúng bản chất của nó. Chính họ đã ngưng vô tận lại trong hiện tồn, khiến vô tận trở nên “thân mật”. (Tôi thích dùng lại chữ Thân mậtcủa Osho, Ấn Độ, theo tên sách của chính ông: Thân mật – Cội nguồn của Hạnh Phúc. (Intimacy Trusting Oneself and the Other. Lâm Đặng Cam Thảo dịch. NXB VHVN TP. HCM 2019).
Tôi đã toan ngưng bài viết của mình ở đây, thì bỗng đọc thêm cuộc đối thoại thú vị giữa Zac Herman và Vĩnh Quyền, giữa người biên tập bản tiếng Anh và các sáng tác của Vĩnh Quyền, do chính tác giả chuyển ngữ. (Bài viết Mười ngày và vô tận của Zac Herman đăng tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số 29 – 2018, khi Vĩnh Quyền hoàn tất bản thảo Trong vô tận). Chính biên tập viên Zac Herman cho rằng: Trong vô tận là một trường hợp thử nghiệm tiểu thuyết lịch sử. Và cảm hứng lịch sử là cảm hứng xuyên suốt, dù Trong vô tận không phải là tiểu thuyết lịch sử.
Sự “không phải” này, theo Zac Herman, đã nằm trong cách kể chuyện về các nhân vật của tiểu thuyết Vĩnh Quyền hoàn toàn theo lối phi truyền thống. Nên, Zac Herman đã hỏi Vĩnh Quyền: Vai trò của yếu tố lịch sử trong quá trình xây dựng chủ đề của tiểu thuyết? Tác giả đáp mạch lạc: một khi nhân vật chính là chàng trai Việt 25 tuổi, sống nhiều năm ở Mỹ, chọn đề tài luận văn thạc sĩ: “Nước Đại Nam – một cường quốc Đông Á”, thì hẳn lịch sử phải là nguồn mạch quan trọng nhất của câu chuyện trong tiểu thuyết.
Chính xác. Bởi nhân vật thanh niên Huế tuổi 25 ấy được Vĩnh Quyền ấn định là người không thích “những ai quen nghĩ một Việt Nam nhược tiểu” và khao khát “làm rõ một đánh giá trong báo cáo của Ngân hàng thế giới, rằng Việt Nam năm 1820 – năm vua Gia Long băng hà sau 18 năm tái thiết đất nước và khắc phục hậu quả hai mươi bảy năm nội chiến cũng như ngoại xâm – là một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người tiếp cận ngưỡng trung bình thế giới, trở thành một trong năm nền kinh tế lớn khu vực Đông Á, điều đến nay, gần hai thế kỷ sau, người Việt chưa thể lặp lại”. (Vượt khỏi thời gian tiểu thuyết, tính đến năm 2020, đã là tròn hai thế kỷ).
Tôi nghĩ, cái cử chỉ đặt tình yêu nước Việt vào đúng thời điểm lịch sử, năm 1820 huy hoàng ấy của Vĩnh Quyền, chủ thể tiểu thuyết, đã chứng tỏ người viết đủ bút lực tinh tế truyền dẫn tình yêu ấy vào hai nhân vật chính một cách mạnh mẽ, thông tuệ, khiến Trong vô tận khắc khoải tìm được sự đa thanh đáng giá của một tiểu thuyết ngắn. Và tránh được sự khô héo chính luận của một tiểu thuyết luận đề. Bởi nó đã hàm ngôn kiến tạo một mạch ngầm yêu nước chảy không nguôi trong tâm thế 5 cái Tôi – đàn – ông của 5 thế hệ, đặc biệt là hai cái Tôi – Cha và Con, là hai thế hệ cuối cùng hiện hữu thời gian tiểu thuyết Trong vô tận. Thêm nữa, sự đa tình, đa cảm của cả hai cha con với các nhân vật phụ nữ từng dính dấp thân mật gần xa với họ, đã được tác giả gài đặt sâu sắc một vẻ huê tình lãng mạn rất Huế, càng làm nổi bật sự đa thanh của tiểu thuyết Trong vô tận, với duyên ngầm viết về yêu đương nhục cảm thật phong nhã của Vĩnh Quyền.
***
Và cuối cùng, khép sách lần thứ ba đọc chậm, vào buổi chiều mùa hạ cuối tháng 7, sắp tràn về cơn bão số 2, ở một vùng biển gần Vũng Tàu, mang cái tên không biển chút nào: Hồ Tràm, thì người đọc tôi mới thực sự thấu suốt và vỡ lẽ cái chủ đề không vô tận của tiểu thuyết Trong vô tận, dù chính nó đã xuyên suốt tiểu thuyết này. Bởi chưng, nhà tiểu thuyết Vĩnh Quyền đã ý thức nâng tầm triết học cho cái sống hằng thường của nhân vật 25 tuổi của mình, ngay ở thì hiện tại của tuổi 25, trong những trang cuối tiểu thuyết. Rốt cuộc, nhân vật đầu xanh tuổi trẻ ấy đã thâu góp được cái ý thức hàn gắn tình Cha – Con, trong hành trình tự mình hàn gắn đứt gãy thế hệ, kết nối quá khứ vô tận của dòng tộc vào dân tộc, vào thời đại của mình đang sống…
Và chính sự đa thanh ấy của tiểu thuyết ngắn Trong vô tận đã tự nó có quyền năng dẫn người đọc đến cái quyền đọc… đa chiều. Và đọc chậm, với nhiều suy tư ngẫm ngợi. Và tôi đã mặc nhiên/hồn nhiên sử dụng quyền đọc chậm Trong vô tận lần 3, một cách thú vị, trong dặm dài thời gian ba tháng. Với câu hỏi khẳng định cho chính mình: Tại sao không?