Có một tấm bia đá dựng tại một ngôi chùa cổ ở huyện Đại Lộc (Quảng Nam) vào nửa cuối thế kỷ XVII tưởng chừng đã đi vào quên lãng bởi lớp bụi thời gian. Thế nhưng, với sự “phát lộ” của các nhà nghiên cứu lịch sử, những thông tin quý từ tấm bia cổ ấy đã được “giải mã”.
Chùa Phổ Khánh (dân gian xưa nay quen gọi chùa làng Ái Nghĩa) tọa lạc tại thôn Phú Nghĩa, xã Đại An, huyện Đại Lộc (Quảng Nam). Đáng chú ý bên trong ngôi chùa khiêm nhường này có một tấm bia đá cổ(1) được PGS-TS sử học Huỳnh Công Bá phiên âm và dịch nghĩa như sau:
Phiên âm:
Phổ Khánh tự
Đại Việt quốc, Quảng Nam xứ, Điện Bàn phủ, An Nông huyện, Ái Nghĩa xã, Phổ Khánh tự minh. Phụng Phật:
Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ, hữu tạo mãi tư điền tại La Đái xã tọa lạc Sa Khố, Suối Giữa nhị xứ cộng điền ngũ mẫu tứ cao bát xích cung vi Tam bảo điền.
Nhất Ái Nghĩa quan viên toàn xã đẳng hữu Thi Lân xứ công điền tam mẫu tính nội tự vi viên khố tam cao cung vi Tam Bảo đắc tiện cung dưỡng dĩ tôn Phật pháp.
Vĩnh Trị tam niên, tuế thứ Mậu Ngọ, quý hạ cốc nhật lập bi.
Bi
Thư tả: Lê Phúc Thông
Lã Hữu Thái
San tượng: Quán Khái xã
Dịch nghĩa:
Chùa Phổ Khánh
Chùa Phổ Khánh xã Ái Nghĩa, huyện An Nông, phủ Điện Bàn, xứ Quảng Nam, nước Đại Việt. Kính tỏ lòng tôn sùng Phật:
Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; (và) Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ, có ruộng tư mua được tại hai xứ Sa Khố và Suối Giữa, thuộc xã La Đái gồm 5 mẫu 4 sào tám thước đem cúng làm ruộng Tam bảo.
Quan viên và toàn dân xã Ái Nghĩa có 3 mẫu ruộng công tại xứ Thi Lân cùng với đất thổ cư ở bên trong khuôn viên vườn chùa là 3 sào dâng làm của Tam bảo để tiện việc cúng dường tôn sùng Phật pháp.
Ngày lành của tháng cuối hạ, năm Mậu Ngọ (1678) niên hiệu Vĩnh Trị (Lê Hy Tông) thứ 3 lập bia.
Bia
Người viết chữ: Lê Phúc Thông
Lã Hữu Thái
Thợ khắc: Xã Quán Khái
Đọc văn bia cổ này, các nhà nghiên cứu lịch sử phát hiện nhiều thông tin quý và lý thú. Trước hết, đó là thời gian hình thành chùa Phổ Khánh trên đất Quảng Nam xưa. Sách Đại Nam nhất thống chí, tập 2- phần Quảng Nam tỉnh (Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2006) của Quốc sử quán triều Nguyễn chỉ nhắc đến các chùa: Tam Thai, Bảo Châu, Long Hưng, Vĩnh An, Phúc Hải, Bảo Quang, Di Đà, Trường Lệ mà không thấy nhắc đến tên chùa Phổ Khánh.
Với chi tiết bài văn bia chùa Phổ Khánh được khắc vào năm Mậu Ngọ (1678) niên hiệu Vĩnh Trị thứ 3, PGS-TS Huỳnh Công Bá cho rằng: Chùa Phổ Khánh ra đời khá sớm so với những chùa được ghi chép trong Đại Nam nhất thống chí và bài văn bia chùa Phổ Khánh là một tư liệu rất quý, cho phép xếp loại bổ sung chùa này vào hàng các chùa cổ trên đất Quảng Nam mà Quốc sử quán triều Nguyễn đã bỏ sót(2).
Nội dung bài văn bia chùa Phổ Khánh còn cung cấp thông tin giúp các thế hệ hậu sinh tra cứu về một số địa danh ở đất Quảng xưa. Chẳng hạn, địa danh Quán Khái xã (làng Quán Khái). Vào năm Mậu Ngọ (1678), thợ điêu khắc đá của làng này đã đi vào làng Ái Nghĩa (nay thuộc huyện Đại Lộc, Quảng Nam) để khắc bia, chứng tỏ Quán Khái đã được thành lập trước đó một khoảng thời gian khá lâu rồi. Đến thế kỷ XVIII, làng Quán Khái được chia làm 2 làng, đó là làng Quán Khái Tây và Quán Khái Đông như sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn còn ghi lại.
Trong 2 làng này thì chỉ có làng Quán Khái Đông (hay Khái Đông), nhân dân ngoài làm ruộng, vẫn tiếp tục làm nghề điêu khắc đá. Sau Cách mạng Tháng Tám (1945), làng Quán Khái Đông thuộc xã An Trung, huyện Hòa Vang. Từ năm 1975 đến năm 1996, làng này thuộc xã Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, sau đó thuộc phường Hòa Hải. Làng đá mỹ nghệ Non Nước ngày nay chính là “hậu duệ” của làng nghề điêu khắc đá truyền thống Quán Khái Đông xưa.
Theo PGS-TS sử học Huỳnh Công Bá, trong bài văn bia chùa Phổ Khánh, không rõ vì lý do gì, tên người khắc bia bị đục xoá nhưng ông cho rằng, quan sát kỹ có thể nhận dạng được người khắc bia có họ Huỳnh (Hoàng)(3). Đây quả là phát hiện khá thú vị vì như vậy người khắc bia có thể thuộc tộc Huỳnh Bá – một tộc họ khai sinh nghề điêu khắc đá ở Quán Khái. Bia mộ Tiền hiền tộc Huỳnh Bá (lập vào thời vua Bảo Đại) có câu được cho là trích lại từ sắc phong: “Thạch tượng Quán Khái xã, Huỳnh Bá tộc thủy khai” (Nghĩa là: Nghề tạc tượng đá làng Quán Khái do tộc Huỳnh Bá khai mở đầu tiên). Dân gian kể rằng, người có công đem nghề đá cổ truyền từ quê nhà Thanh Hóa vào vùng đất Ngũ Hành Sơn là cụ Huỳnh Bá Quát, đồng thời cũng lập ra làng Quán Khái, hiện nay bia mộ cụ vẫn còn nhưng sắc phong xưa đã bị giặc Pháp thiêu hủy cùng với đình làng Quán Khái(4).
Trên văn bia chùa Phổ Khánh có đề cập đến việc Hội chủ Lê Cao Trí, pháp danh Chơn Thuyên; bà Nguyễn Thị Diệp, hiệu Diệu Huệ; quan viên và toàn dân xã Ái Nghĩa đem ruộng tư và ruộng công “dâng làm của Tam bảo để tiện việc cúng dường tôn sùng Phật pháp”. Điều này cho phép khẳng định vai trò to lớn của Phật giáo trong đời sống xã hội ở thế kỷ XVII, khi mà các vị chúa Nguyễn thực hiện chính sách hòa hiếu, thân thiện và hướng Phật ở Đàng Trong, tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho Phật giáo du nhập và phát triển một cách tự nhiên và nhanh chóng.
Điển hình là Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1675-1725). Trên quả Đại hồng chung chùa Thiên Mụ đúc năm 1710, ông đã cho khắc những dòng chữ: “Quốc chúa Đại Việt Nguyễn Phúc Chu, nối dòng Tào Động chánh tông đời thứ 30, pháp danh Hưng Long đúc hồng chung này nặng 3.285 cân an trí ở chùa Thiên Mụ thiền tự để vĩnh viễn cung phụng Tam bảo. Cầu nguyện gió hòa mưa thuận quốc thái dân an, chúng sinh trong pháp giới đều hoàn thành Đại viên chủng trí.
Năm Vĩnh Thịnh thứ 6, ngày Phật đản tháng Tư Canh Dần”(5). Mặt khác, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Dị Cổ, việc tiến cúng ruộng đất cho chùa cho thấy sự phong phú đa dạng và mang đậm sắc thái văn hóa làng xã trong việc sử dụng đất đai ở nông thôn xứ Quảng xưa. Trong đó, ruộng đất thuộc sở hữu nhà chùa là một dạng đặc biệt(6). Cũng theo tác giả Nguyễn Dị Cổ, việc cúng ruộng đất cho chùa diễn ra liên tục và đồng thời với lịch sử phát triển Phật giáo ở xứ Quảng kể từ thế kỷ thứ XVII trở đi đã giúp cho “luôn luôn thâu trữ để làm kho lẫm của thiền môn.
Nhờ vậy mà tứ sự (ăn, mặc, ở, thuốc men) nơi thiền môn không lúc nào thiếu hụt sự cúng dường thường đầy đủ, khiến cho sự diễn giảng giáo pháp được lưu thông, kinh vàng thường mở đọc, trống pháp vang rền, đèn từ rực sáng, bồ đề cây tươi tốt đẹp xinh, mưa cam lộ rải khắp trời tây, hoa trời rơi tản mạn đủ màu, mây lành trải qua nam cực, lá bối thành chương”(7).