Dưới vương triều Nguyễn, có 2 vụ án lớn liên quan đến các bậc công thần. Đó là vụ án của Nguyễn Văn Thành dưới triều vua Gia Long và vụ án của Tả Quận công Lê Văn Duyệt dưới triều vua Minh Mạng. Dù đã hàng trăm năm trôi qua, nhưng bản án dành cho công thần Lê Văn Duyệt vẫn khiến hậu thế không khỏi ngạc nhiên, đó chính là bản án mà triều đình đã giáng xuống khi ông đã qua đời.
Tả Quận công Lê Văn Duyệt (1764-1832) là một công thần trụ cột của triều Nguyễn. Ông theo chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn thành Gia Định 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (triều vua Minh Mạng). Vì thế mà Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng ngũ khai quốc công thần của vương triều Nguyễn.
Làm quan dưới triều đình, Lê Văn Duyệt rất được vua Minh Mạng nể trọng, tin tưởng, rất nhiều lần vị vua thứ 2 của triều Nguyễn đã ban thưởng cho ông. Mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 15, mặt khắc 2, cho biết như sau: “Sai Trung sứ đem các đồ thưởng cho Lê Văn Duyệt. Dụ rằng: “Khanh từ khi nhận mệnh vào trấn đến nay, các đại lễ khánh hạ chưa được về thăm hầu. Nay tiết Vạn thọ, lại vì biên cương chưa yên nên không triệu về, lòng trẫm lấy làm áy náy. Vậy đặc biệt cho đồ nội tạo, một cái ống điếu bằng pha lê bịt vàng, 1 chén ngọc liệu màu xuân thanh bịt vàng, 1 chén ngọc liệu màu mỡ cắt bịt vàng, 1 cái chậu pha lê, để tỏ ý trẫm quyến niệm càng lâu càng trọng”.
Một lần khác, vua Minh Mạng đã dành lời khen ngợi khi nói về Tổng trấn thành Gia Đinh, mộc bản sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 36, mặt khắc 9, 10, còn khắc ghi như sau: “Duyệt là bậc đại thần ở nơi bờ cõi, phàm trong hạt việc lợi thì làm, việc hại thì bỏ, người có tài thì tiến lên, người không tài thì bãi đi, khiến quan lại được xứng chức, nhân dân được yên nghiệp, như thế thì quan to sợ phép, quan nhỏ giữ liêm, ai là không biết khuyên răn, phép làm cho quan lại trong sạch như thế chẳng là đẹp tốt sao?
Thế nhưng, cuộc đời của Lê Văn Duyệt đã gặp phải nhiều bi kịch khi liên quan đến người con nuôi là Lê Văn Khôi. Từ khi con nuôi Lê Văn Khôi nổi loạn chống lại triều đình vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt, Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 109, mặt khắc 3 còn ghi lại lời trách mắng của vua: “Những người làm tướng chuyên giữ trách nhiệm ở ngoài như Hoàng Công Lý, Lê Văn Duyệt, không biết tuyên dương đức hóa, chỉnh đốn quan, dân, để công việc ngày một bê trễ, nhiều người kiêu ngạo lười biếng, đánh bạc chơi bời liên miên, mắc phải nọc độc thuốc phiện, thường thường khám phá ra những vụ gian phi phạm pháp, phong tục ngày càng hư hỏng, đã làm cho tạo vật phải ghét! Lê Văn Duyệt thì lại chứa nuôi ban hát, dung túng bộ hạ tức như Lê Văn Khôi trước kia mạo xưng họ vua, quen tính hung tợn, thế mà được Văn Duyệt che chở gây dựng, để lại họa hoạn về sau”.
Năm Ất Mùi (1835), khi cuộc nổi loạn ở thành Phiên An (tức thành Gia Định) của Lê Văn Khôi bị triều đình đàn áp thì cũng là lúc đỉnh điểm sự ghét bỏ của Minh Mạng đối với Lê Văn Duyệt được phát ra. Cho dù Lê Văn Duyệt đã chết, nhưng sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt dâng sớ kể tội Lê Văn Duyệt xin vua đưa người thân Lê Văn Duyệt về bộ Hình xét tội. Vị vua thứ 2 của triều Nguyễn đã giao cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Lê Văn Duyệt, có 7 tội phải chém, 2 tội phải thắt cổ.
Mộc bản triều Nguyễn, sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 162, có đến 9 mặt khắc (mặt khắc 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10) ghi chép về tội danh của Lê Văn Duyệt, trong đó có 7 tội đáng chém như sau:
1. Sai người riêng của mình sang Diến Điện, kết ngoại giao ngầm.
2. Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến thành Gia Định để tỏ mình có quyền.
3. Xin giết Thị vệ Trần Văn Tình để khoá miệng người khác.
4. Dâng sớ chống lại mệnh vua, cố xin cho viên quan đã bổ thụ đi nơi khác được lưu lại và điều 1 viên quan đi làm việc khác khi đã có chiếu chỉ tuyên triệu.
5. Kết bè đảng, xin cho Lê Chất được thêm tuổi thọ.
6. Giấu riêng những giấy đóng sẵn ấn ngự bảo.
7. Gọi mộ tiên nhân là “lăng”.
Vua dụ rằng: “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ không sai; đạo công tồn tại ở người ta, thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ, cả thiên hạ đều giận, mọi việc ác đều dồn vào, muôn miệng cùng nói như một, đủ tỏ là cái án đích xác, nghìn năm bất dịch. Vả, tội của Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng; dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ: hắn chết đã lâu, trước chịu tội âm rồi, lại đã truy đoạt quan tước, còn nắm xương khô trong mả, nay cũng chẳng thèm gia hình. Vậy sai Đốc phủ Gia Định lập tức san mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc 8 chữ lớn: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ hoạn quan lộng quyền là Lê Văn Duyệt chịu tội chết), để nêu rõ tội danh ở sau khi chết, mà làm tỏ sáng phép nước về sau này, và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời”.
Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cào bằng, mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Những cáo sắc phong tặng cho đời cụ, đời ông và bố mẹ của Duyệt đều thu lại cả. Các mồ mả tiên nhân có chỗ nào tiến lạm trái phép thì đều huỷ bỏ đi. Các con em và vợ cả vợ lẽ của Duyệt đều xử tội có phân biệt, tài sản đều tịch thu.
Có thể nói, vụ án Lê Văn Duyệt khép lại nhưng vẫn còn nhiều ẩn khuất. Có lẽ ở bên kia thế giới, Lê Văn Duyệt cũng không biết được rằng khi ông mất đi, đã có một bản án được thực hiện ngay trên ngôi mộ của mình. Cũng cần nói rằng, đây là vụ án có một không hai trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam nói chung và lịch sử vương triều Nguyễn nói riêng.