“Hiếu Mường” Vũ Đức Hiếu, giám đốc Bảo tàng Không gian văn hóa Mường, ba mươi lăm tuổi, quê Nam Định, sinh ra ở Hà Nội, lớn lên ở Hòa Bình. Sau nhiều năm chuyên cần học hành, nhọc nhằn tu nghiệp và thử đủ thứ việc ở chốn hàng phố lao xao, anh lẳng lặng ngược về đồng rừng Hòa Bình.
Từng là thủ khoa khoa Tạo dáng Đại học Mỹ thuật công nghiệp, tốt nghiệp loại giỏi khoa Lý luận phê bình Đại học Mỹ thuật Hà Nội, có nhiều năm làm báo, vẽ tranh, đi buôn, phát triển trang trại, mở quán cà phê… cuối cùng Vũ Đức Hiếu trở thành “ẩn sĩ” dưới chân dốc Cun. Không biết mệnh, nghiệp, đam mê hay điều gì đã xúi bẩy anh phải lao vào níu giữ những hồi quang rực rỡ và cả ảo ảnh của nền văn hóa Mường? Năm năm qua, kế bên Tây Tiến – con đường nhỏ mang tên một tác phẩm thơ rất nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng (cách trung tâm thành phố Hòa Bình khoảng 7km), anh đã xây dựng Bảo tàng Không gian văn hóa Mường như một lựa chọn quá nhọc nhằn, rất đơn độc, nhiều rủi ro.
Nếu phải phác thảo chân dung của Vũ Đức Hiếu, người ta chỉ cần thể hiện ánh mắt âm u màu sương khói miền sơn cước ngày cuối xuân. Ngay cả khi cười, gương mặt ấy vẫn phảng phất buồn. Thân phận của chàng “hiệp sĩ” gợi cho người ta nỗi xót xa về đúng – sai, hay – dở, được – mất của những giá trị văn hóa trước mặt trái của phát triển.
Dưới đây là cuộc trò chuyện của hai kẻ cùng mê đồng rừng, từng dọc ngang bốn Mường cổ: Bi, Vang, Thàng, Động – Một ghi chép tư liệu về hiện tượng giao thoa văn hóa Việt – Mường.
____
Cơ duyên, bản mệnh hay sự lựa chọn cá nhân đã đẩy Vũ Đức Hiếu thành “Hiếu Mường”?
Cái tên “Hiếu Mường” từng là hỗn danh từ thời sinh viên. Mỗi người một việc, một số phận. Cũng có thể là cuộc sống đưa đẩy. Bạn bè, người thân nhắc đến điều này thì như là than vãn về một quả nghiệp. Có người chịu ảnh hưởng triết lý nhà Phật thì cho là duyên. Hơi khó giải thích, cắt nghĩa nhưng có gì đó giống như số phận của các ông Mo trong cộng đồng người Mường. Biết đâu công việc, chức phận, trách nhiệm trước bảo tàng của tôi đã được lựa chọn.
____
Nửa đầu thế ky XX, nữ tiến sĩ người Pháp Jeanne Cuisinier (1890-1964) đã có công trình khảo cứu Người Mường. Những năm cuối thế ky này, Trần Từ (Nguyễn Từ Chi 1925-1995) công bố những nghiên cứu Vũ trụ luận Mường, Hoa văn Mường… Đầu thế ky XXI, có thể nhận định về sự xuất hiện của Bảo tàng Không gian văn hóa Mường như một tiếp nối cho những hành trình trở về với văn hóa Mường?
Cho đến bây giờ, Người Mường vẫn là công trình lớn nhất nghiên cứu về văn hóa Mường. Với tất cả những ai muốn nghiên cứu Mường, Jeanne Cuisinier là người khai minh. Trần Từ là nhà Mường học đáng kính nhất, tấm gương đáng trân trọng về lao động khoa học, một nhân cách lớn. Các công trình của Trần Từ tiếp cận sâu hơn tới những vấn đề như Vũ trụ luận, cách giải thích về “Ba tầng bốn thế giới” hay những nghi lễ, nghi thức trong các đêm Mo để gìn giữ các giá trị tinh thần, tâm linh của người Mường, hoa văn Mường…
Tôi chưa dám so sánh, đặt định bản thân với những tác giả lớn, những cột mốc lớn trong lộ trình nhận thức đúng về giá trị to lớn của một nền văn hóa vốn cùng gốc với người Việt và nếu có chia tách thì cũng chưa mấy xa. Văn hóa là một dòng chảy. Dù lớn, nhỏ, khi mùa cạn, lúc lũ về hay đất lở, núi sạt, nguồn mạch đó có thể chuyển, đổi dòng chứ không thể đứt đoạn. Nếu không phải là tôi thì cũng có một ai đó được “phân công” đảm trách.
Văn hóa là một dòng chảy. Dù lớn, nhỏ, khi mùa cạn, lúc lũ về hay đất lở, núi sạt, nguồn mạch đó có thể chuyển, đổi dòng chứ không thể đứt đoạn.
____
Liên quan đến sự phát triển của dự án, điều gì khiến anh suy ngẫm nhiều nhất về Jeanne Cuisinier và Trần Từ?
Những năm cuối thập niên 1920, sự phân chia đẳng cấp trong xã hội Mường rất rõ. Jeanne Cuisinier thường đi kiệu về các Mường. Jeanne Cuisinier chọn không gian tiếp cận Mường từ các nhà Lang, những đại biểu quý tộc, những người có địa vị cao trọng nhất. Do những biến động quá lớn về chính trị – xã hội, bây giờ đối tượng này đã biến mất. Tôi không còn cơ hội tiếp cận.
Trong khi đó Trần Từ lại đói khổ, bệnh tật, thiếu thốn đủ thứ, không có phương tiện đi lại, không gian tiếp cận hạn hẹp trong vùng Lương Sơn, Kim Bôi, Tân Lạc, chưa có điều kiện nhìn rộng ra và so sánh những khác biệt giữa các vùng Mường Phú Thọ, Thanh Hóa, Nghệ An… Trần Từ không có con. Các tác phẩm nghiên cứu – những đứa con đích thực của ông cũng chỉ được chào đời vào dịp giỗ đầu của ông.
____
Những điều đó có gợi cho Bảo tàng Không gian văn hóa Mường nhắm tới một con đường đi khác biệt?
Khi bắt tay xây dựng Bảo tàng Không gian văn hóa Mường, tôi cũng dựa rất nhiều vào Jeanne Cuisinier và Trần Từ. Những di sản của họ vừa là nền tảng lý luận, kiến thức, phương pháp vừa là động lực. Tôi nỗ lực học tập phương pháp thực chứng của những nhà khoa học phương Tây như Jeanne Cuisinier. Nhưng ngược hẳn với Jeanne Cuisinier, tôi sống, tiếp cận Mường từ trong cuộc sống thực của người dân nghèo. Với Trần Từ, tôi được dạy cách tránh đi những suy diễn, cảm tính trong nhận định. Và để làm việc khoa học hơn, cần mở rộng phạm vi tiếp cận, nghiên cứu để kết nối với nhiều giá trị khác, tránh võ đoán.
Điều kiện xã hội hiện nay chắc chắn bảo đảm cho chúng tôi nhiều điều kiện và cơ hội để đến với không gian Mường hơn Trần Từ. Tìm kiếm, sưu tầm và phục nguyên một không gian đã và đang hiện tồn là phương châm hoạt động của Bảo tàng. Ngày trước, văn hóa Mường gần như là dạng đề tài chuyên biệt, đối tượng tiếp cận rất chọn lọc. Nay thì rất nhiều người ở độ tuổi, trình độ khác nhau có nhu cầu tiếp cận đề tài này. Họ không có nhiều thời gian để nghiền ngẫm những vấn đề kinh viện, đọc tác phẩm kinh điển như trước đây. Bởi thế, Bảo tàng hướng tới thỏa mãn nhu cầu xem, nghe, nhìn như là một dẫn dắt, gợi ý, chỉ lối.
____
Anh có thể nói điều gì ngắn gọn, rất tiêu biểu của người Mường?
Jeanne Cuisinier từng nhận định rằng người Mường mừng vì một vụ lúa được mùa, một chuyến săn bắn được nhiều thú. Thích ăn ngon. Ngày cưới, ngày sinh con là lễ hội… Họ không biết đến những lo lắng siêu hình. Không có khả năng hưởng cái vui của lý luận trừu tượng. Nhân tình trong cái đơn sơ. Thụ động nhưng sâu sắc…
____
Người Mường có những cách nhìn nhận rất riêng về trời đất vũ trụ, nguồn gốc của dân tộc mình?
Trong các tác phẩm Mo Mường, Đẻ đất đẻ nước, Mo lên trời, Truyện nàng Nga Đạo hai mối, dân ca truyền khẩu… có những câu rất mộc:
Vùng đất này ngày xưa chưa có bạc lạc
Vùng nước này ngày xưa chưa có bời lời
Trời với đất còn dính vào làm một
Chưa có sông Ly chảy qua lá bái (tranh)
Bông cơm, trái lúa đời ấy chưa nên…
____
Kiến trúc Mường là di sản vật chất lớn nhất của Bảo tàng Không gian văn hóa Mường. Ngôi nhà của người Mường có những gì khiến chúng ta cần lưu tâm?
Người Mường có cả một huyền thoại rất sâu sắc về việc loài rùa nhiều lần mách bảo cách dựng nhà dựng cửa:
Bốn chân tôi là bốn cột cái
Hai vỉa sườn là hai mái nhà
Xương sống nên đòn nóc, bắc kèo cái,
Xương sườn lên rui,
Lỗ đầu làm lối lên cửa chạn
Lỗ ỉa lỗ đái lối vào lối ra
Người lấy cây lau làm độ
Cây lồ cố làm đòn tay
Cây cỏ may làm lạt buộc
Người có đụn chin quà
Có nhà chín gian,
Nơi ăn chốn ở.
(Chạn là đầu cầu thang nhà sàn; độ là cột; lồ cố: một loại cỏ thân mềm)
Tuy nhiên, việc sử dụng cây lau làm cột đã khiến cho những kiến trúc đầu tiên không bền vững. Người Mường lại phải mất công tìm rùa để tra hỏi thêm. Lúc này rùa mới mách tiếp:
Chặt cây sấu làm xà
Đẵn cây lim làm cột
Lạt buộc bằng cây giang
Lợp nhà ba gian bằng cỏ bái.
Rùa đã mách bảo người Mường làm nhà sàn để thích ứng với nhu cầu sống bên những dòng sông, suối, mùa mưa lũ có nhiều lũ lụt hay sạt, lở núi. Phía sau câu chuyện phải mất hai lần con người mới có bản thiết kế hoàn chỉnh, ngôi nhà, kiến trúc, không gian sống của người Mường đã phác thảo dần một triết lý. Nó cho thấy người Mường luôn có nhu cầu vật chất giản dị, gắn bó với thiên nhiên, lựa theo tự nhiên. Cũng từ huyền thoại này mà người Mường kiêng không ăn thịt rùa.
____
Trong Bảo tàng có đủ nhà Lang, Ậu, Nóc, Trọi. Kết cấu gỗ không mộng có ảnh hưởng tới chất lượng công trình? Với người Mường, kiến trúc có tạo nên những thang bậc nào trong giá trị sống? Vì sao những quý tộc Mường chỉ thích nhiều nhà mà không làm kiến trúc thật lớn?
Hiện nay Bảo tàng còn lưu giữ một hiện vật quý hiếm. Đó chính là ngôi nhà Lang cột chôn sâu, có kết cấu gỗ không mộng, các xà ngang được đẽo hình lục giác và chỉ gác lên cột gốc giống như các khớp xương động vật. Dựng cột chiếm nhiều thời gian nhất trong quá trình xây cất nhà. Khi đất có biến động, ngôi nhà dao động mà không bị xô đổ hay vỡ.
Nhà của người Mường được chia thành bốn loại: nhà Lang, nhà Ậu, nhà Nóc và nhà Nóc Trọi để phân định đẳng cấp trong xã hội. Nhà Lang là của quý tộc, dành cho người giàu sang nhất ở. Còn người ta làm nhiều nhà không phải vì không thích hay không thể làm nhà lớn. Giản đơn đó là nơi ở dành riêng, không gian độc lập cho các thứ phi, thiếp yêu, vợ bé.
____
Dọc đường từ Hà Nội lên đây có rất nhiều quán nhậu, có giới thiệu rất nhiều về rượu Mường. Anh có thể tư vấn là nếu cần vài chén tẩy trần, dân thành phố nên dừng chân ở đâu?
Đúng là có rất nhiều nhà sàn bán rượu nhưng có đúng là rượu Mường hay tửu đạo của người Mường hay không thì cần xem xét và cân nhắc kỹ.
Từ rất xa xưa, người Mường có hẳn một trường ca Đẻ rượu cần. Quy trình làm rượu được quy định rất kỹ, ngặt nghèo. Gạo nấu rượu được chọn ra từ loại thóc: “Đỏ bông cái sáng sáng. Vàng bông con chói chói”. Người dân lên rừng lấy rễ cây mật cú, vỏ cây mun, lá xà can, cỏ giạ lộng, gỗ cây dớn… đem giã thành bột, nặn thành bánh men. Có nơi dùng lá quế hoặc lá đào. Đàn bà là người làm men. Người Mường chia men thành hai loại: men đực, men cái. Men cái nắm bằng tay trái. Men đực nắm bằng tay phải. Trộn hoa vào giữa bánh men rồi đem hun khói. Sau đó chọn tay người rắc men lên cơm rượu. Ủ rượu vào ổ lá vo, lá ráy. Đong vào chĩnh, vò, sau đó ủ tiếp vào ổ rơm ở góc nhà. Sáu tháng lại đổi vò một lần để cất ra thứ rượu:
Rượu ngấm từng vòng
Rượu trong nước ngọt
Rượu đắng dễ nuốt
Rượu ngọt giống mật ong
Rượu hồng như mật ong đo, ong khoái.
Nấu đã mất công như thế, nên thưởng rượu của người Mường cũng phải theo quy chuẩn đàng hoàng. Gặp nhau mở đầu câu chuyện xã giao thì chỉ cần vài tuần trà. Khi mang rượu ra thết đãi là đã cởi mở, thân tình. Bữa ăn thường mở đầu và kết thúc bằng chén rượu. Chén đầu tiên bao giờ cũng uống cạn để mừng thổ lang và tổ tiên. Trước khi đặt môi lên chén thì nâng cao chén ngang trán và cúi đầu để uống. Người đàn ông có thể quên nhưng đàn bà không được phép bỏ qua thủ tục này. Sau đó cứ mỗi lần mời uống thì chủ nhân nắm tay khách và nói: “Xin mời”. Đưa đẩy chén say thường có hò, hát đối…
____
Bên cạnh tửu đạo, anh có thể giới thiệu điều gì về đồ nhậu như một gợi ý để tiếp cận văn hóa ẩm thực của người Mường?
Tuy chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về ẩm thực Mường như với Mo, dân ca truyền khẩu, âm nhạc xéc bùa, thời trang… nhưng món ăn của người Mường là một đề tài thật hấp dẫn.
Các món ăn mang dấu tích rất rõ của mùa. Tháng 3-4, có nhiều món ăn côn trùng như kiến, trứng kiến. Tháng 6 là mùa của các loại ốc đá, cua đá. Tháng 8-9, có món ong, nhộng. Món ăn của người Mường chủ yếu được đồ, hấp, nướng. Gia vị chế biến món ăn phần lớn là các loại rau, lá như he, mắc khén, lồm xồm, các loại củ, quả. Có loại lá mang hương vị của cây gỗ đại thụ. Món nhậu đáng kể phải là món da trâu hun khói nấu với lá khoai môn.
Người Mường cũng có tập tục kiêng khem. Theo ghi chép của Jeanne Cuisinier thì họ Quách ở Lạc Sơn không ăn thịt chó. Họ Đinh ở Cao Phong không ăn thịt khỉ. Họ Đinh Thế ở Lạc Sơn không ăn cá bống. Họ Hà, Hoàng không ăn thịt dê. Họ Bạch ở Kim Bôi không ăn thịt cuốc. Họ Phạm Thúc ở Ngọc Lạc, Thanh Hóa không ăn kỳ đà… Thói quen này xuất phát từ truyền thuyết về nguồn gốc, ý niệm về sự đầu thai của tổ tiên, nguyên tắc bảo vệ biểu tượng totem, thái độ không sử dụng uy lực với một số loài…
Tìm kiếm, sưu tầm và phục nguyên một không gian đã và đang hiện tồn là phương châm hoạt động của Bảo tàng. Bảo tàng hướng tới thỏa mãn nhu cầu xem, nghe, nhìn như là một dẫn dắt, gợi ý, chỉ lối.
____
Về với đồng rừng, thưởng thức “Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui…”, thú thực là còn rất mê gái Mường. Mà có gì to tát đâu, chẳng hiểu vì sao, trong các tiệc rượu hay mỗi lần theo dân bản nghe hát xéc bùa… tôi cứ bị hớp hồn bởi cái nẹp vải đỏ rất nhỏ ẩn khuất sau cái mép váy đen chưa phủ kín gót chân trần. Đã tốn rất nhiều phim ảnh về cái chi tiết đó. Là một họa sĩ, anh có nhận xét gì về váy Mường?
Thời trang các dân tộc miền núi thường có nhiều hoa văn, họa tiết. Váy Mường đơn giản hơn rất nhiều. Cái đẹp giản đơn nhưng tinh tế. Cạp váy từ trên ngực ôm ngang thân, được thêu rồng, phượng, hoa lá, trang trí hình học hay các đường lượn sóng. Họa tiết còn phản ánh đẳng cấp của người sử dụng. Đôi khi đó còn là các biểu tượng chứa nhiều thông điệp lớn, để hiểu được thì cần phải phân tích, lý giải khá phức tạp.
Còn váy đen cạp thêm mảnh vải đỏ nhỏ bên trong mép váy là một thiết kế quá tinh tế. Sau mỗi bước chân, người ta chỉ thấp thoáng đỏ với gót chân trắng hồng. Màu đỏ áp đảo của thời trang Pà Thẻn, những chi tiết cầu kỳ của H’Mong, tinh tế của vạt áo khoác ngắn hẫng của Hà Nhì cũng không ám ảnh như mép váy Mường.
____
Tới đây, lại muốn hỏi thêm: Làm thế nào để Không gian văn hóa Mường cũng khiến người đời say sưa như mỗi lúc quây quần bên vò rượu cần, thăng hoa khi nghe xéc bùa và có được sức ám ảnh, hấp dẫn của một dáng người đẹp?
Có lẽ đó chính là một yêu cầu thúc bách vì sự tồn tại của Bảo tàng. Bên cạnh việc tiếp tục nâng cao chất lượng phần trưng bày giới thiệu văn hóa Mường, chúng tôi sẽ mời các nghệ sĩ trong nước và quốc tế tham gia những workshop – hoạt động nghệ thuật đương đại vì cộng đồng.
____
Được biết anh từng tham gia những hoạt động này ở Malaysia, vậy có rút ra được những gì có thể áp dụng tại Việt Nam?
Đúng là đã có những mô hình này ở Malaysia, Thái Lan, Đài Loan (Trung Quốc). Thú vị nhất là làng Sasaran, bang Selangor, Malaysia – nơi đã hai lần đăng cai thành công sự kiện nghệ thuật, thu hút nhiều nghệ sĩ đến từ nhiều nước và vùng lãnh thổ tham gia. Họ sáng tác, vẽ tranh và làm sắp đặt. Họ tự túc tiền đi lại, còn dân làng sẽ chu cấp nơi ở, ăn uống. Có gia đình đóng góp trăm trứng, tạ gạo. Nếu nghệ sĩ có nhu cầu đi đâu, nhiều người sẵn sàng giúp đỡ miễn phí. Sự kiện thu hút sự quan tâm từ thống đốc bang, các quan chức cấp cao về văn hóa. Doanh nhân thì tích cực tài trợ, còn báo chí cũng rất quan tâm. Với tất cả hiệu ứng trên, từ một làng chài rất nhỏ bé có hơn hai ngàn người sinh sống, Sasaran trở thành một điểm đến văn hóa khá nổi tiếng.
Tháng 9 năm ngoái, theo mô hình trên, Bảo tàng Không gian văn hóa Mường đã tổ chức rất thành công workshop nghệ thuật đương đại thu hút những tác phẩm mới nhất của 26 nghệ sĩ đến từ khắp đất nước. Sự kiện này đẩy Festival văn hóa Mường 2011 lên một tầm ảnh hưởng lớn hơn.
Với kinh nghiệm thu được, vào tháng 10 tới chúng tôi sẽ khai mạc trại sáng tác quốc tế có sự tham gia của 40 nghệ sĩ trong cả nước và quốc tế. Đây chính là cơ hội lớn để quảng bá những giá trị tinh hoa của văn hóa Mường ra thế giới. Nó thúc đẩy sự quan tâm hơn nữa của cộng đồng với các hoạt động sáng tạo, nghệ thuật. Một cơ hội để được sống, giao lưu với các nền văn hóa khác.
____
Phải chăng với những thay đổi đó của Bảo tàng mà sau năm năm phát triển, “bà giám đốc” và hai con mới quyết định chia tay Hà Nội, bỏ phố về rừng để gia đình cùng đoàn tụ?
Vũ Đức Hiếu chỉ cười mà không nói năng gì. Trước khi về phố, bất chợt muốn mượn ý thơ của Quang Dũng đề tặng chủ nhân Bảo tàng như một lời chia tay: Hiếu lên Tây Tiến ngày xa ấy/ Hồn ở lại đây chẳng về xuôi.