Tôi đứng giữa rẫy lúa của bà Ka Dít, đưa tay che nắng nhìn về buôn B’Đăng thấp thoáng dưới dốc. Trong tầm mắt, nằm chênh chếch mép buôn, ngôi nhà dài duy nhất lợp lá mây rừng, ngôi nhà mà ngành Văn hóa Lâm Đồng phục dựng với mục đích giữ lại một hình ảnh kiến trúc truyền thống của cư dân Mạ từ nền cũ của gia đình ông K’Rèn và bà Ka Dít, như một thực thể cô đơn giữa không gian hiện đại. Cảm xúc giữa những hình ảnh làng buôn đổi mới hôm nay vẫn có chút gì đó hanh hao…
Giữa trưa đứng bóng, bà Ka Dít, bà Ka Hương và cả mấy đứa con cháu cùng cô cán bộ văn hóa xã cũng có tên Ka Hương cùng chúng tôi lên thăm rẫy lúa, mảnh lúa rẫy sót lại cuối cùng giữa vùng đất cổ người Mạ. Cái nắng màu mật ong xuyên qua những tán lá rừng, những vườn chè, cà phê, những vạt lúa cao che ngang mặt người làm cho bức tranh núi rừng Lộc Bắc (Bảo Lâm, Lâm Đồng) như tươi sắc hơn.
Tiếng người trẻ người già chuyện trò rôm rả âm sắc bản ngữ, tiếng của đàn chim ri liệng thấp giữa trời lích chích gọi nhau, tiếng gió lùa sóng lúa xào xạc… tạo nên một dàn âm thanh sinh động. Những người đàn bà Mạ chân đất, đầu trần bước đi giữa rẫy lúa nhún nhảy vỗ tay đuổi chim khi những hạt ngọc của Yàng đang cuối kỳ mẩy hạt. Họ chuyện trò với lúa, còn tôi thì ngẩn ngơ ngắm họ và suy ngẫm về một không gian văn hóa rừng đang đối diện với nguy cơ phai nhạt những gì thuộc về căn cốt.
Tôi cảm nhận được tình yêu của những người phụ nữ Mạ với cây lúa từ bàn tay nâng niu, từ ánh mắt đắm đuối với ngọn, với bông. Không biết họ gắn bó với những cây trồng công nghiệp mới du nhập ra sao còn giờ đây giữa rẫy nương này, sự giao cảm máu thịt của người Mạ với cây lúa là điều mà tôi cảm nhận rõ ràng. Ngắm những người dân bản địa giữa rẫy lúa cuối cùng, tôi nghĩ, có lẽ đây là một trong những hình ảnh đặc trưng sơn cước hiếm hoi sót lại.
Không biết già làng K’Diệp của buôn B’Đăng, bà chủ rẫy Ka Dít và cháu gái Ka Hương của bà có cùng chung tâm cảm với tôi? Còn tôi, chỉ là khách lãng du qua miền đất của người Mạ hôm nay, vẫn có chút gì đó luyến tiếc đến nao lòng.
- Xem thêm: Nên thơ và khoáng đạt rừng núi Di Linh
Chắc là tôi bị ám thị với hình ảnh “rẫy lúa cuối cùng”, gợi nhớ đến cảm xúc chứng kiến một điều quý giá sắp mất đi vĩnh viễn. Tôi không trải qua cùng cư dân Mạ trong những ngày lên rừng tìm đất tốt vỡ rẫy. Tôi không được cùng họ cắm cây tre vót nhọn chọc lỗ, tra hạt và càng không được làm đứa trẻ rừng để đạp chân lên cuống rạ trong buổi chiều đuổi trâu kêu vang lục lạc về buôn.
Tôi chỉ từng là khách trong một đôi lần được sẻ chia niềm vui cùng họ trong ngày đón hạt lúa từ rẫy về ủ ấm kho lúa sau nhà hay treo lên gác bếp, chưa mấy lần được ăn hạt cơm dẻo thơm từ rẫy lúa rừng Yàng. Nhưng chỉ cần tưởng tượng về điều đó, hồn tôi như nhập cùng ký ức của những người đàn ông, đàn bà cùng trò chuyện hôm nay. Tôi cũng sẽ nhớ về rẫy lúa cuối cùng này như người Mạ rồi sẽ phải tiếc nuối một hình ảnh đã sống cùng tâm thức qua nhiều thế hệ…
Thử hỏi, với người Mạ, với người bản địa Tây Nguyên xưa, trong sản xuất nông nghiệp, có thứ gì còn có thể quý hơn cây lúa? Khi chưa có những loài cây công nghiệp du nhập vào lãnh địa của “những người ăn rừng”, cây lúa hiện hữu từ trong đời sống mỗi ngày, từ tiềm thức, trong những giấc mơ phiêu bồng của người xứ thượng và thiêng liêng ngự trị giữa cõi thần linh.
Cây lúa, hạt gạo là cái ăn nuôi sống con người, con người yêu quý lúa gạo và luôn mong muốn, khao khát ấm no nên tôn vinh một vị thần riêng của lúa (Yàng Koi) để có chốn nương cầu. Cũng từ đây, chuỗi nghi lễ nông nghiệp hình thành từ xã hội cổ sơ và tồn tại cho đến ngày nay, chuỗi nghi lễ ấy dành cho vòng đời sinh trưởng của cây lúa.
Như cộng đồng người Mạ, trong hệ sinh thái liên quan đến chu trình cây lúa, từ lúc tìm đất, phát rừng, đốt rẫy, khai vỡ, gieo hạt, làm cỏ, chăm sóc, đón hạt lúa về nhà đều diễn ra những nghi lễ tương ứng: Nhô năngbri, Nhô sadingbar, Nhô tăm snum, Nhô kèp, Nhô dồng.
Đặc biệt nhất, lễ hội Nhô rhe – mừng lúa về kho, một lễ hội lớn nhất trong năm, kéo dài bảy ngày bảy đêm với hàng loạt các lễ thức, ẩm thực và thực hành các sinh hoạt văn hóa dân gian. “Uống mừng đậy nắp bồ lúa” cũng là dịp buôn làng có cơ hội ngồi lại bên nhau trao truyền những tri thức bản địa quý báu.
Ba mươi năm sống ở Tây Nguyên, tôi đã đi qua biết bao buôn làng trong mùa lúa chín và được nghe văng vẳng lời khấn của các vị tộc trưởng gửi thông điệp ước nguyện no ấm lên Yàng: “Ơi Yàng, tôi mời Yàng về, tôi ăn uống mừng lúa mới. Yàng về ăn, về uống, giúp cho ăn mãi lúa vẫn còn, hốt ra khỏi kho vẫn không hết được”.
Nhớ biết bao những lần cùng được ngồi dưới gốc cây nêu giữa buôn, thoảng thơm mùi hương rượu cần ủ lâu vừa mở, được cùng người già, người trẻ, con trai, con gái đốt lên ngọn lửa ấm, hòa cảm vòng xoang trong nhịp điệu cồng chiêng. Trong không gian của ngày hội mừng mùa lúa mới, những thông điệp thiêng liêng như đã thấm tai Yàng…
Dù giọng có chút bùi ngùi, nhưng bà Ka Dít cũng gửi tôi lời mời dịp mừng lúa mới thì về vui lễ Nhô rhe với gia đình bà. Tôi biết đến ngày đó vẫn sẽ có cây nêu, rượu cần, gà nướng, da trâu nấu với cà đắng, cá suối ướp với măng rừng, vẫn sẽ có lời khấn Yàng linh thiêng và nhịp chiêng droòng sẽ nổi lên trước sân nhà của bà Ka Dít. Nhưng ngày lễ ấy liệu còn đúng bản chất của văn hóa nương rẫy hay không, còn đúng nghĩa là ngày hội chia sẻ của cộng đồng khi cả xứ Mạ bây giờ chỉ còn duy nhất người đàn bà có tuổi hơn sáu mươi mùa rẫy này là vẫn giữ tình với lúa, chỉ còn một rẫy lúa nhỏ nhoi cuối cùng giữa xứ Mạ ngàn xưa…
* * *
Tôi đã ngồi đây, trong ngôi nhà dài cuối cùng trên vùng đất người Mạ. Dù chỉ là ngôi nhà dài phục dựng theo dự án của ngành văn hóa nhưng dù sao nó cũng còn đôi phần sức sống vì gia đình bà Ka Dít vẫn ở trong đó. Tôi ngắm từng chi tiết kiến trúc và sắp xếp các vật dụng trong ngôi nhà dài: này bàn thờ, này bếp, này sàn ngủ, này cầu thang, này chóe, này chiêng. Các cán bộ văn hóa đã rất cẩn trọng trong việc thực hiện thiết kế và thi công, mô phỏng hết sức tinh tế ngôi nhà dài truyền thống của cư dân Mạ.
Để có được ngôi nhà dài phục dựng này, hơn mười năm trước, Ngọc Lý Hiển, một cán bộ văn hóa của tỉnh đã về xứ Mạ, làm con nuôi của ông K’Rèn và sống với Lộc Bắc cả mấy mùa rẫy. Anh đã cùng đồng bào lên rừng chặt tre, chọn mây, cắt lá và thao thức hàng tháng ròng rã để làm sao cho quá trình phục dựng giống nhà dài truyền thống đến từng chi tiết…
Hôm nay ngồi giữa ngôi nhà phục dựng mà tôi lại nhớ cái lần về với xứ Mạ này hơn hai mươi năm trước. Ngày đó, giữa trưa đứng bóng, từ đỉnh dốc, tôi ngước mắt nhìn về thung lũng và thảng thốt nhận ra cảnh tượng rất lạ, đó là một buôn làng với những ngôi nhà dài. Những ngôi nhà “dài như tiếng chiêng”, giống mô tả trong trường ca Đam San, nép tựa vào nhau như những bức tường thành uốn lượn bên rừng già ngập tràn nắng gió. Rất bình dị mà gợi lên những xúc cảm và dòng suy tưởng.
- Xem thêm: Trắng trời tiệc hoa
Trước mỗi cầu thang là những cụ ông ngồi suy tư với tẩu thuốc trên tay. Sân khác, những người đàn bà cụp cum giã gạo cho bữa cơm chiều. Những chàng trai mang khèn M’bướt ra lau và vi vút thổi giai điệu đại ngàn. Những cô gái từ bến tắm về, vừa bước khoan thai lên bảy bậc cầu thang vừa giũ mái tóc chảy tràn như suối. Trẻ em hồn nhiên trò chơi rừng núi. Người già kể, ngày xưa rất xưa, cả buôn hàng trăm người chỉ có dăm, bảy nhà dài thôi, mỗi nhà có khi là cả một đại gia đình, thậm chí là cả dòng họ lên tới hàng trăm người cùng ở.
Trong căn nhà có thể có tới cả chục cái bếp, tức là cả chục tiểu gia đình cùng sinh sống. Có nhiều cách để giải thích về kiểu cư trú này, nhưng tôi đồng ý với suy luận: Kiểu cư trú đó là một hình thức tự vệ khi khởi thủy trong rừng sâu, đồng bào phải liên tục chống chọi với thiên tai, thú dữ, với những cuộc chiến tranh bộ tộc, họ cần phải cấu kết đông đúc hơn, chặt chẽ hơn, mạnh mẽ hơn để bảo toàn sự sinh tồn của gia đình, cộng đồng…
Trong khi tôi còn mải ngắm nghía ngôi nhà và hồi ức về những năm tháng cũ thì bà Ka Dít cũng đã kịp mang ra đặt giữa sàn chóe rượu cần thơm nức mùi hương lúa mẹ. Bà hút sâu cang rượu, rẩy những giọt đầu tiên với lời khấn Yàng và tưởng nhớ người đàn ông chủ nhà K’Rèn đã mất từ hơn mười năm trước. Câu chuyện cũng nở dần ra khi men rừng đã ngấm lâng lâng.
Bà Ka Hương chỉ mới uống vài cang mà đã hứng khởi cất lên giai điệu N’rí. Câu hát ấy là lời dạy con: “Yàng pơcih tơ jơng lòt brơi. Yàng pơcih tờtơi lơh kòi. Yàng pơcih tờ yòi hỏi Yàng… Mi at gỡ ui jơng. Mi kơđơng gỡ ui tơi. Mi kơlơi gỡ nuih tồr…” (Yàng ghi ở bàn chân để con đi rừng. Yàng ghi ở bàn tay để con trồng lúa. Yàng ghi ở bờ môi để con ơn Yàng… Con cầm kỹ tấm choàng chân. Con vịn kỹ tấm choàng tay. Con giữ kỹ nếp nghĩ tấm lòng…).
Có gì nao nao như những dòng hồi ức đầy tiếc nuối về một thuở cao nguyên trong những lời ca ấy mà gợi cho Chủ tịch xã K’Tư thêm những tâm sự. Người đàn ông Mạ bước qua tuổi bốn mươi, vịn vào tay tôi mà nói: “Mình sinh ra, lớn lên ở buôn làng này. Quê hương bây giờ đổi mới, cuộc sống người dân ấm no hơn nhờ được Nhà nước đầu tư và tư duy làm ăn của đồng bào cũng khá hơn rất nhiều. Nhưng dù sao thì mình vẫn rất nhớ hình ảnh buôn làng ngày trước, từ thời niên thiếu”.
- Xem thêm: Khát vọng biến đổi Tây Nguyên
Rồi vít cong cần rượu hút cạn hơi dài, ký ức ngây thơ trở về trong đáy mắt K’Tư. Đó là những sáng vào rừng hái măng tìm mật, những chiều lên rẫy suốt lúa, bẫy chim, những tối đốt đuốc bắt cá suối, cua núi. Những đêm cúng đất, cúng rừng thiêng liêng và cộng cảm. Làng buôn rộn ràng tiếng tù và rúc, bập bùng chiêng năm, chiêng ba và lời hát Lảh lông, Tầm pớt. K’Tư cũng chưa quên ngày đầu đón người con gái buôn bên về ngôi nhà dài nhà mình làm vợ, anh đã hát lời yêu bên bếp lửa mới ngăn: “Em là chim N’tợp núp dưới cọng khoai môn. Đến làm người của anh mãi mãi. Em là con chim ngoài rẫy. Về ở với anh suốt đời”…
* * *
Rời xứ Mạ khi màn đêm vừa phủ lên những cánh rừng. Từ đỉnh dốc, tôi ngước mắt ngược về những buôn làng lùi lại phía sau mà liên tưởng những năm tháng nơi này đã lùi sâu ký ức. Tôi khắc ghi vào tâm cảm của mình hình ảnh ngôi nhà dài phục dựng lẻ loi giữa buôn và rẫy lúa cô đơn giữa rừng.
Không biết những cư dân Mạ nuối tiếc những ngôi nhà dài truyền thống và những rẫy lúa xứ sở ra sao, còn tôi thì ngẩn ngơ như vừa bị mất đi một cái gì đó vô cùng quý giá. Hôm nay đây tôi ngược nguồn đi tìm ký ức những bếp lửa nhà dài, hít căng lồng ngực giữa rẫy lúa cuối cùng như tìm về nét đẹp dần trôi vào dĩ vãng của một tộc người cư trú ngàn đời giữa đại ngàn Tây Nguyên.