Hàn Mạc Tử học “trường ra trường, lớp ra lớp” chỉ 6 niên khóa (1924-1926) tại Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Huế. Thời gian học Trường Pellerin tại Huế, Hàn trọ nơi đâu? Chuyện Hàn không thể du học Pháp do quan hệ với chí sĩ Phan Bội Châu, hư thực thế nào? Viết về Hàn thuở học sinh, đáng tiếc rằng nhiều thư tịch, trong đó có hồi ký của Nguyễn Bá Tín là em ruột Hàn, cả sách giáo khoa hiện hành cùng Từ điển văn học đều bị sai lầm, cần hiệu đính.
Hàn Mạc Tử / Nguyễn Trọng Trí (1912-1940) trải qua giai đoạn học sinh tại các trường ở 3 địa phương lần lượt: Quảng Ngãi (1924-1926), Quy Nhơn (1926-1928), Huế (1928-1930).
Trần Thanh Mại, tác giả cuốn Hàn Mạc Tử (ấn hành lần đầu năm 1942, NXB Tân Việt ở Sài Gòn tái bản nhiều lần với nhan đề Hàn Mạc Tử 1912-1940 thân thế và thi văn) ghi nhận: “Lần đầu tiên Nguyễn Trọng Trí cắp sách đến trường là tại Quảng Ngãi”.
Nguyễn Bá Tín tường thuật qua hồi ký Hàn Mạc Tử anh tôi (NXB TPHCM, 1991, trang 20-21): “Sau khi cha tôi mất đi, tháng 7-1926, gia đình tôi dọn về Quy Nhơn ở với anh Mộng Châu. Hai chúng tôi cùng vào học trường trung học Quy Nhơn. Đến lớp nhất [tương đương lớp 5 hiện nay], anh Trí ra Huế học Pellerin”.
Sáng thứ bảy, 11-11-2000, đúng ngày tưởng niệm 60 năm mất Hàn Mạc Tử, tôi trực tiếp gặp Nguyễn Bá Tín tại Sài Gòn. Ông Tín cho biết:
– Chúng tôi học vỡ lòng ở nhà. Cha tôi dạy. Từ năm 1921 đến 1924, hai anh em tôi theo học lớp dạy tư của thầy Chariles, một tu sĩ hoàn tục, tư thất nằm góc đường Gia Long – Khải Định [nay là giao lộ Trần Hưng Đạo – Lê Lợi] tại Quy Nhơn. Anh Trí với tôi chính thức học trường công là tại Quảng Ngãi. Ngày nay, học trò 12 tuổi đã lên lớp 7. Còn hồi đó, anh Trí 12 tuổi học lớp 3 chưa phải lớn lắm đâu. Trong lớp có khối anh “già” hơn. Tôi còn nhớ thầy dạy anh Trí lớp 3 ở Quảng Ngãi: thầy trợ Giác. Thầy dữ lắm, từng dùng thước kẻ đánh anh Trí sưng vù mấy ngón tay vì tội nghịch ngợm. Nhiều người không biết rằng thời học sinh, anh Trí hoang nghịch thuộc loại… thượng thặng!
Địa danh trong Chơi giữa mùa trăng
Thuở học trò ở thị xã Quảng Ngãi, nhờ liên tục ghé hải khẩu Sa Kỳ, nơi cha làm việc, Hàn Mạc Tử đã tích lũy bao ấn tượng để về sau sáng tạo nên Chơi giữa mùa trăng. Đây, đôi đoạn trích:
Chị tôi liền chỉ tay về phía bến đò thôn Chùa Mo và bảo tôi rằng: “Thôi rồi! Trí ơi! Con trăng nó bị vướng trên cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát được, biết làm thế nào, hở Trí?”. Tôi cười: “Hay là chị em ta cho thuyền đỗ vào bến này, rồi ta trèo lên động cát với tay gỡ hộ cho trăng thoát nạn?”. Hai chị em liền giấu thuyền trong một bụi hoa lau bông vàng phơi phới, rồi cùng lạc vào một đường lối rất lạ, chân giẫm lên cát mà cứ ngỡ là bước trên phiến lụa (…).
Tôi nắm tay chị tôi giật lia lịa và hỏi một câu tức cười làm sao: “Có phải chị không hả chị?”. Tôi run run khi tôi có cái ý nghĩ: chị tôi là một nàng Ngọc nữ, một hồn ma, hay một yêu tinh. Nhưng tôi lại phì cười và vội reo lên: “A ha, chị Lễ ơi, chị là trăng mà em đây cũng là trăng nữa!”. Ngó lại chị tôi và tôi, thì quả nhiên là trăng thiệt. Chị tôi hí hửng như xuân, chạy nhảy xênh xang, cơ hồ được dịp phát triển hết cả ngây thơ của người con gái mười lăm tuổi.
Trong Chơi giữa mùa trăng, nhân vật được nêu đích danh: Nguyễn Trọng Trí cùng chị kế là Nguyễn Thị Như Lễ. Còn thôn Chùa Mo nằm đâu? Lắm sách cước chú: “Một làng ở cửa biển Quảng Ngãi”. Đúng ra, phải là thôn Châu Me. Nhưng duyên hải tỉnh Quảng Ngãi có ít nhất hai thôn cùng tên Châu Me. Chắc chắn chẳng phải thôn Châu Me thuộc xã Phổ Châu, huyện Đức Phổ; nơi chân đèo Bình Đê, giáp giới huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Mà phải là thôn Châu Me thuộc xã Bình Châu, huyện Bình Sơn; bởi nơi ấy có cơ quan thương chánh hải khẩu Sa Kỳ mà phụ thân của Hàn làm việc thuở nọ. Châu Me thuộc Bình Châu có mũi đất Ba Làng An, năm 2000 được xây hải đăng; và địa bàn này hiện thuộc Khu Kinh tế Dung Quất. Tôi đồ rằng trong bản thảo, Hàn viết Châu Me.
Học ở Huế, Hàn trọ chỗ nào?
Vậy Nguyễn Trọng Trí thi sơ học yếu lược ở Quảng Ngãi ra sao? Nguyễn Bá Tín không nhớ. Thân phụ Nguyễn Văn Toản mất tại Huế ngày 2-7-1926, sau đó gia đình Hàn chuyển về Bình Định. Một bạn thân của Nguyễn Trọng Trí là Bùi Tuân (1913-1966) viết trong bản thảo Bùi Tuân – Hàn Mạc Tử một tình bạn thanh cao (Tủ sách Bùi gia, Lái Thiêu, 2010): “Trí theo mẹ vào Quy Nhơn và học tại đây 2 năm nhưng vẫn không sao giựt được mảnh bằng tiểu học”. Vậy thì trong hai niên khóa 1926-1927 và 1927-1928, tại Collège de Quinhon, Hàn học lớp nhì năm thứ hai và lớp nhất.
Mùa hè năm Mậu Thìn 1928, anh Mộng Châu Nguyễn Bá Nhân bàn với mẹ cho em Trí ra Huế học Trường Pellerin. Bùi Tuân nhớ: “Nguyễn Trọng Trí vào lớp nhất niên B Trường Pellerin ngày 5-9-1928. Cuối năm học 1928-1929, chàng không được lên lớp, có lẽ vì chưa có bằng tiểu học. Mùa tựu trường tháng 9-1929, Trí học lại lớp nhất niên B. Cuối niên học ấy, tháng 6.1930, Trí thi đậu bằng tiểu học”.
Là ngôi trường tư thục do các tu sĩ dòng La Salle mở ở Huế từ năm 1904, Trường Pellerin về sau được gọi Trường Bình Linh và hiện là Học viện Âm nhạc Huế, tọa lạc ở số 1 đường Lê Lợi, ngay đầu cầu ga tàu lửa. Đây là cơ sở giáo dục nghiêm túc, đạt chất lượng tốt, nổi tiếng một thời.
Thi sĩ Hoàng Diệp, họ tên Nguyễn Anh (1912-1996), tác giả tập thơ Xác thu (1937), soạn sách Hàn Mạc Tử đoạt giải thưởng phê bình văn chương năm 1967 của Trung tâm Văn bút Việt Nam, nhà sách Sống Mới ở Sài Gòn ấn hành thành sách năm 1968 mà bìa 1 ghi nhan đề Hàn Mạc Tử thi sĩ tiền chiến. Tôi từng có dịp tiếp chuyện với thi sĩ Hoàng Diệp lúc sinh tiền, nghe ông kể:
– Mình là bạn học chung lớp với Hàn tại Trường Pellerin. Cùng lớp, còn có linh mục Cao Văn Luận, về sau làm Viện trưởng Viện Đại học Huế. Thuở học Pellerin, Hàn nội trú trong ký túc xá của trường.
Nguyễn Bá Tín viết hồi ký Hàn Mạc Tử trong riêng tư (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1994, trang 25), nhớ khác: “Những năm còn học Pellerin Huế, anh ở Bến Ngự, trọ nhà cụ nghè Tuần”.
Ông nghè Tuần có họ tên Phan Thiện Tuần, con của Phan Văn Khuyên – một trong ba cự phú một thời xứ Huế.
Bùi Tuân cũng nhớ: “Ra Huế, Nguyễn Trọng Trí được một linh mục và một người đàn bà có họ về phía ngoại, đem đến gởi ăn cơm tại nhà bà Phan Thiện Tuần mà người ta quen gọi bà nghè Tuần vì chức phận của chồng bà”.
Học bạ và bằng tiểu học
Ở Nha Trang, nhà giáo Võ Văn Côn tức nhà văn Châu Hải Kỳ (1920-1993) từng lưu bản sao học bạ bằng tiếng Pháp của Nguyễn Trọng Trí do trường Pellerin lập niên khóa 1929-1930. Đây, nhận xét năm học cuối gồm 2 học kỳ (semestre viết tắt thành sem) của Hàn:
Langue frse(*): a fait quelque progrès (1ersem); reste stationnaire (2esem).
Mathématiques: très ordinaire (1ersem); assez bon quoique irrégulier (2esem).
Sciences: élève travailleur, a fait beaucoup de progrès (1ersem); sérieux et appliquer, résultats satisfausants (2esem).
Histoire et géographie: bonne mémoire, résultats satisfaisants (1ersem); assez bon (2esem).
Dessin et écriture: assez bon écriture, faible en dessin (1ersem); assez bon dans l’ensemble (2esem).
Langue annamite: bon pour la traduction (1ersem); premier en rédaction annamite (2esem).
Appréciations du directeur: Assez bon ensemble (1ersem); Résultats assez satisfaisants (2ersem).
Việt dịch, với từ học kỳ được viết tắt hk:
Pháp văn: có vài tiến bộ (hk1); chững lại (hk2).
Toán: rất thường (hk1); khá nhưng không đều (hk2).
Khoa học: chăm, tấn tới nhiều (hk1); nghiêm túc, cần mẫn, đạt kết quả mỹ mãn (hk2).
Sử địa: trí nhớ tốt, kết quả mỹ mãn (hk1); khá (hk2).
Vẽ và viết: chữ viết khá, vẽ yếu (hk1); khá cả hai môn (hk2).
Việt văn: dịch giỏi (hk1); nhất về tập làm văn (hk2).
Hiệu trưởng nhận xét: nói chung là khá (hk1); kết quả khá mỹ mãn (hk2).
Nguyễn Bá Tín trân trọng lưu giữ Certificat d’études primaires franco-idigène/ Pháp Việt sơ học văn bằng của anh mình. Bằng được cấp tại Huế ngày 26.12.1930 sau khi Nguyễn Trọng Trí đỗ kỳ thi tiểu học yếu lược vào tháng 6-1930.
Xác minh đôi vụ việc
Năm 1926, Hàn nhập học Pellerin, cũng là thời gian nhà ái quốc Phan Bội Châu (1867-1940) hùng hồn diễn thuyết tại các trường Đồng Khánh và Khải Định (tức Quốc Học – Huế), khích lệ nam nữ thanh niên phát huy tinh thần yêu nước. Đầu xuân Kỷ Mão 1927, giới trẻ chuyền tay nhau Bài ca chúc Tết thanh niên của “ông già Bến Ngự” hừng hực hào khí:
Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết dơ nô lệ
Vài tài liệu cho rằng thời học sinh ở Huế, Hàn thường lui tới kính viếng “ông già Bến Ngự” và cùng xướng họa thi văn. Vậy thiếu chính xác. Vì khi Phan Bội Châu lập “Mộng Du thi xã” để trao đổi tâm tình cùng đồng bào, đồng chí, thì Hàn ký bút danh Phong Trần, lúc đó đã trở về nhà ở Quy Nhơn, mạo muội gửi tới 3 bài thơ Thức khuya, Chùa hoang và Gái ở chùa. Cụ Phan rất tán thưởng, nhất là bài đầu, bèn họa vận và cho đăng Thực Nghiệp Dân Báo ngày 11-10-1931, thêm lời bình: “Từ về nước đến nay, tôi được xem thơ quốc âm cũng khá nhiều. Song chưa bài nào hay đến thế. Ôi! Hồng Nam, nhạn Bắc, ước ao có ngày gặp gỡ để bắt tay nhau cười lên một tiếng, ấy là thỏa hồn thơ đó”.
Chữ nghĩa vừa nêu của Phan chứng tỏ trước thời điểm nọ, “ông già Bến Ngự” và Hàn chưa gặp nhau. Đọc lời khen cùng bài họa của một bậc thanh danh lừng lững, Hàn quá mừng, bèn ra Huế thăm Phan tiên sinh lần đầu vào cuối năm 1931.
Bấy giờ, theo Nguyễn Bá Tín, Hàn vừa lập thủ tục sang Pháp học tập do Hội Như Tây du học bảo trợ. Trong Hàn Mạc Tử anh tôi (trang 26) và Hàn Mạc Tử trong riêng tư (trang 26-27), Nguyễn Bá Tín viết rằng mật thám Pháp “đánh hơi” mối quan hệ giữa Hàn với Phan chí sĩ, do đó Hàn bị “rút mất giấy phép vừa được bổ túc hồ sơ cho qua Pháp”.
Chuyện ấy hư thực ra sao? Hội Như Tây, tên đầy đủ là Hội An Nam Như Tây Du Học Bảo Trợ, do đại thần Nguyễn Hữu Bài (1863-1935) sáng lập ở Huế năm 1926 và làm Chánh Hội trưởng, mục đích cấp học bổng và “thuyền phí” cho các học sinh xuất sắc ở miền Trung sang Pháp học tập để thành nhân tài phục vụ quê hương. Đó là những học sinh thông minh, khéo, giỏi, đã đỗ tú tài Pháp, về sau trở nên nổi tiếng như Phạm Đình Ái, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xiển, Tạ Quang Bửu. Vậy Nguyễn Trọng Trí lúc ấy 19 tuổi mà mới tốt nghiệp tiểu học, há lẽ được Hội Như Tây tuyển chọn để đưa qua Pháp làm… sinh viên?
Trong Từ điển văn học (NXB Thế Giới, Hà Nội, 2004, trang 574), GS. NGND. Nguyễn Hoành Khung viết về Hàn: “Học ở Trường dòng Pelơranh (Pellerin) ở Huế chừng hai năm (1828-1930) rồi học tiếp ở Quy Nhơn”. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 cứ in đi in lại rằng Hàn Mạc Tử “có hai năm học trung học tại Trường Pe-lơ-ranh (Pellerin) ở Huế”. Đó là những điều sai lầm, rất cần chỉnh sửa.