Cho đến năm 1912, hơn trăm năm trước, đôi guốc đóng theo kiểu Sài Gòn đã có tiếng tăm lan ra tới tận Hà Nội.
Theo ông Hoàng Đạo Thúy trong cuốn “Hà Nội thanh lịch”, lúc đó kiểu guốc Sài Gòn được ưa chuộng cùng với áo cánh cổ thìa. Đôi guốc Sài Gòn “thấp gọn và xinh” khiến các cô Hà Nội rất thích: “Các cô khua rất to. Buổi tối mà nghe ngoài hè “lóc cóc, rào rào”, đích thị là rạp hát Thông Sáng tan rồi”.
Phố Hàng Dép, đầu Hàng Bồ là hàng bày nhiều guốc nhất: “chiến thắng trên phản bày hàng là “guốc Sài Gòn”. Nhẹ, gọn, xinh xắn, rẻ tiền, gót sen đi lách cách“không guốc nào sánh kịp”.
Ở Hà Nội cùng lúc có hiệu Phúc Mỹ ở Quán Thánh ném ra loại guốc Phi Mã gót cao lênh khênh đẽo bằng máy, được giới thiệu: “đi Phi Mã, thì chân dài hơn, phía sau bụng tôn lên, lịch sự lắm” nhưng loại này “không mở rộng được mấy” “có lẽ vì mấy cô bị trẹo xương chân”.
Tuy có loại guốc được ưa chuộng ở đô thị thanh lịch xứ Bắc, không phải hầu hết dân chúng miền Nam lúc đó đều có đôi guốc dưới chân. Đa số dân chúng nông thôn đi chân không, trừ lúc đi tắm buổi chiều tối mang guốc cho sạch chân chuẩn bị lên giường đi ngủ, hoặc có một đôi “làm vía” để dành đi xa hoặc dự tiệc tùng. Tuy vậy đối với dân Sài Gòn – Gia Định, guốc đã phổ biến, được dùng cả ngày.
Theo tác giả Vương Đằng, trước khi có kiểu guốc tân thời được ưa chuộng, trước năm 1910, ở miền Nam đã có guốc vông, làm bằng thân cây vông, đa số tự chế để dùng. Nhưng hồi xưa, ai làm nấy xài, vừa dầy vừa thô, mỗi bên hông có khoét lỗ hình chữ nhựt. Muốn gắn quai, người ta chêm mỗi bên một miếng nêm bằng cây, đi lâu hoặc bị vấp, miếng nêm lỏng hay văng ra thì người ta dừng lại và ngồi xuống gõ, vỗ, chêm lại cho cứng. Quai guốc thời ấy đơn giản, cái gì cũng có thể dùng làm quai nếu chắc chắc và dẻo, trong đó có vỏ dừa khô, thường được dùng làm quai khi chưa có kiểu da cao su, da quai nhung đóng vắt ngang như kiểu guốc tân thời.
Vương Đằng xác định từ năm 1910, loại guốc một quai, đóng đinh hai đầu quai, vắt ngang năm đầu ngón chân được truyền bá bắt đầu từ Sài Gòn (nên gọi là “guốc Saigon”) lan khắp miền Nam và khắp nước Việt Nam. Ông cho biết lúc đầu, guốc nầy không sơn; rồi sơn màu đen hoặc nâu đen (có lẽ là dùng sơn ta) nên được gọi là “guốc sơn” để phân biệt với “guốc vông” không sơn.
Báo Lục Tỉnh Tân Văn ra tháng Chín 1919 nhắc đến một “tiệm đẽo guốc” tức là nơi sản xuất guốc, quảng cáo “Đờn bà Annam mang guốc này mới thiệt sang trọng cho”. Tiệm này xuất phát từ “một nhóm anh em ở Sài Gòn hùn nhau” mở ra tại đường Cần Giuộc (?) số 11.
Tiệm giới thiệu với sự tự hào khi đang có phong trào dùng đồ nội hóa, tẩy chay hàng Tàu: “guốc tiệm chúng tôi bán ra, tay của thợ Annam làm với cây trong đất Annam, da trong xứ Annam, đinh của Langsa, dầu sơn của Langsa, chẳng dùng món nào của China hết thảy. Chúng tôi tưởng tuy là nghề hèn mọn mặc dầu, nhưng mà có cho Annam dùng, khỏi dùng guốc Khách trú”.
Lời quảng cáo còn đi xa hơn, dẫn lời văn của nhà văn Lê Hoằng Mưu trích trong tiểu thuyết Mộng Huê Lầu ca ngợi phẩm hạnh của phụ nữ Annam khi mang guốc nội hóa: “Hễ Sài Gòn mà có guốc của quí hiệu để bán khắp nơi, thì đờn bà Annam, thiệt chánh tay nội trợ Annam, chẳng còn mang guốc Khách vì mang đôi guốc của Annam đẽo bán, ra đường đờn ông thấy đều phải kỉnh cho là một người đờn bà có phẩm”. Guốc có nhãn in chữ Annam, ghi số và giá tiền.
Thời đó ở Sài Gòn xuất hiện loại guốc ngù, xuất xứ từ loại guốc Ấn độ có tên là Padukas. Nó có phần gỗ lót dưới bàn chân chạm trổ hoa lá rất đẹp. Người Ấn không chỉ dùng ngù bằng ngà, mà còn bằng sắt, bạc, gỗ. Từ Ấn Độ, guốc ngù theo tàu biển đi từ Ấn Độ dương, qua eo biển Malacca đến Mã Lai, Nam Dương vốn đông người Hoa. Từ đó, người Hoa đưa về Sài Gòn, có thể từ những người Bà Ba (người Mã Lai gốc Hoa) nhập về cho vợ con mang, dần lan ra giới phụ nữ Việt có tiền, nghệ sĩ cải lương…
Loại guốc ngù này không có quai, chỉ có một miếng ngà hay xương hoặc gỗ (gọi là ngù) chêm đứng trên mặt guốc phía trước để kẹp ngón chân cái và ngón chân trỏ khi muốn đi. Guốc này có giá trị nhờ cái ngù, nhưng sau vì cái ngù ngà mà loại guốc này mau chóng tàn lụi.
Chuyện kể lại là khi giá nó lên quá cao, tột bực là 20 đồng, các ông chồng cảm thấy khổ sở vì vợ đòi mua không chỉ một đôi mà vài đôi để tùy việc mà đi, bèn âm mưu nhờ một người làm báo, viết chuyện để hù dọa phụ nữ. Tờ báo tung ra chuyện đó là tờ Lục Tỉnh Tân Văn, người viết là ông Trần Văn Chim, người lập mưu là ông Trần Triều Vinh, làm việc ở bót Giếng Nước. Bài báo khẳng định nếu phụ nữ mang guốc ngù ngà sẽ bị đau tử cung, vì ngà có chất độc, hằng ngày da thịt cọ vào chất độc sẽ thấm vào người sinh bệnh. Tin lan truyền nhanh, qua miệng phụ nữ với nhau càng nhanh, các bà sợ nên tránh xa guốc ngù ngà. Người Hoa mất mối lợi to, riêng các ông là mừng húm. Tuy nhiên, các bà được giải thoát đôi guốc mắc tiền nhưng bất tiện vì đi không nhanh, không vững, đi mau mỏi đầu ngón chân vì phải ráng sức kẹp mới không bị tuột.
Đôi guốc này chỉ phổ biến tới miền Nam, thịnh hành một thời gian cho đến đầu thập niên 1920 rồi tàn lụi, không thấy ra được tới miền Bắc.
Cho đến thập niên 1930, mặt hàng guốc đã thịnh hành lắm rồi và có nhiều thương hiệu cạnh tranh với nhau. Giới chủ làm guốc đầu tư máy móc, thu mua nguyên liệu để sản xuất guốc.
Đến năm 1933, chưa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế nhưng đọc trên Nhật Báo Sài Gòn (số 177, 5 tháng Mười hai) thấy tiệm Guốc Cầu Kiệu ở số 478 Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) là tiệm lâu năm, quảng cáo làm guốc bằng máy móc tinh xảo, được sơn loại tốt nhất và đang cần mua nhiều loại gỗ tốt để làm guốc. Tiệm có thợ người Nam, sơn mài theo lối Bắc, rất kỹ lưỡng, kiểu dáng nhã nhặn, lại rẻ tiền, nhiều màu sơn đẹp, bền chắc. Nếu cần có xe hơi giao hàng đi lục tỉnh, có địa chỉ bán ở Cần Thơ và Phnom penh và có kho trữ hàng ở chợ Sài Gòn (Bến Thành).
Bộ tranh ký họa Monographie dessinée de l’Indochine: Cochinchine do học sinh trường vẽ Gia Định xuất bản năm 1935 có bức tranh vẽ bảy đôi guốc với các kiểu dáng khác nhau, có guốc cao gót, có đôi có quai đục lỗ trang trí, quai chéo… với dáng guốc thon đẽo theo dáng chân, có đôi guốc kiểu dáng chữ nhật thô sơ dùng ở nông thôn…
Tuy guốc Sài Gòn có lúc vang danh ở xứ Bắc, nhiều thợ thủ công xứ Bắc, vốn giỏi nghề thủ công từ ngàn xưa đã Nam tiến vào Sài Gòn làm guốc cho tiệm guốc Phù Lưu của ông Phạm Văn Viên, ở số 111 đường Lagrandière (Lý Tự Trọng).
Tiệm này tự hào quảng cáo trên báo Tân Văn (số 26 ngày 19 tháng 1 năm 1935): “Rất đẹp mà nhã, là guốc Phù Lưu”. Tiệm có trên 30 người thợ Bắc thiện nghệ chuyên pha màu sơn và chế kiểu guốc, vừa khéo vừa nhã. Lời giới thiệu của tiệm chú trọng sự thoải mái của người mang: “Guốc mang vừa lịch sự, tính theo khoa học không hại vệ sinh. Chơn đi được tự nhiên không phải chúi vào, xiêu lệch, được nở nang theo sức khỏe”. Như các tiệm guốc thời đó, tiệm này có gian hàng tại chợ Bến Thành (Sài Gòn).
Về nghề làm guốc, báo Khoa Học, (số 40, 15 Tháng Hai 1933) có bài của Thiện Dư Hoàng Mạnh Khánh khá chi tiết, cho rằng nghề này có lợi to, nhiều người làm. Người ngoài Bắc đem cả thợ vào Nam kỳ mở hiệu guốc. Nghề làm guốc ngày một phát đạt vì guốc tiện dụng cho cả mọi người, từ sang đến hèn dùng được, mùa mưa mùa nắng dùng được cả.
Ở xứ Bắc, Tết về vừa mưa vừa rét, các hàng bán guốc đắt hàng. Gỗ để đẽo guốc thường dùng những thứ xấu như: gỗ vành bè, gỗ trám chẩu, gỗ xoan, gỗ vạng .v.v… gỗ phải thẳng thớ mới làm được guốc. Guốc đẽo và bào xong phải để cho khô mới đem sơn. Bài viết cho thấy kỹ thuật làm guốc khá công phu, nhất là để sử dụng ngoài Bắc do thời tiết khắc nghiệt hơn trong Nam, chất liệu sơn ta được tận dụng triệt để để chống nứt nẻ cho guốc trong thời tiết miền Bắc, vẫn được chuộng ở miền Nam.
Trước 1945, guốc dành cho phái nữ trở nên nhu cầu thiết yếu. Ông Nguyễn Cương Phú tại Úc, cư dân Sài Gòn sinh thập niên 1930 kể mẹ ông nhờ có cửa hàng guốc dép ở chợ Bến Thành mà gia đình sống sung túc, nuôi tới tám người giúp việc. Lúc đó, guốc dành cho phụ nữ đã có nhiều kiểu dáng đa dạng, nhiều màu sơn, đủ loại quai, có khi là hai quai, cao thấp đủ cả.
Thập niên 1960, ở Sài Gòn vẫn thấy các cô các bà đi guốc, nhiều đôi vẽ hoa trong lòng guốc, quai bằng nhựa trắng trong hơi ngả vàng. Lúc đó không còn nghe tiếng khua guốc kêu lóc cóc nữa vì guốc đã được lót đế bằng cao su cho êm và lâu mòn. Giữa thập niên 1960, phụ nữ có nhiều chọn lựa cho đôi chân của mình. Họ thích đi lại đôi hài cườm diện với áo dài, sau đó là trào lưu guốc cao gót mũi nhọn, một biến thể của đôi guốc Việt nhưng xuất xứ từ phương Tây.
Cho đến sau 1975, vẫn thấy có người mang đôi guốc gỗ quai nhựa trong, sơn trắng và quang dầu bóng. Người phụ nữ này khoảng gần tứ tuần, đã có ba người con, làm dâu một gia đình giàu có là chủ đất khu chợ Ga Phú Nhuận. Vóc dáng bà còn cân đối, da trắng. Bà thường bận áo tay ngắn, quần lãnh Mỹ A đen. Dưới chân bà là đôi guốc trắng đó ôm sát đôi chân trắng thon nhỏ có cái gót hồng, nổi bật dưới màu đen bóng của lai quần.
Đó là hình ảnh rất đẹp về đôi guốc dưới chân người phụ nữ Việt, khiến lúc đó, tôi đã tự hỏi đôi guốc đẹp vậy mà sao ngày càng ít người mang?
(Trích trong cuốn “Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm” do Công ty sách Phan Book xuất bản 2021)