Các nước ráo riết xây dựng đại học hàng đầu

Trong một thập niên qua, có thể nói việc xếp hạng đại học toàn cầu đã đặt ra một áp lực to lớn lên tất cả các trường. Chính phủ các nước coi các trường đại học đẳng cấp quốc tế (ĐHĐCQT) là biểu tượng cho sự giàu mạnh và niềm tự hào của mình, và nhiều nước đã đặt ra mục tiêu xây dựng những trường đại học có thể sánh ngang với những đỉnh cao Harvard, Cambridge, Oxford, nhất là những nước có nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga và Ả Rập Saudi. Có thể rút ra những bài học hay trải nghiệm gì từ những đề xướng đó sau một thập niên tiến hành?

Kinh nghiệm của các nước này cũng như những thách thức mà họ gặp phải, là một chủ đề quan trọng chiếm bốn trong tám phiên họp của Hội nghị Quốc tế lần thứ năm về ĐHĐCQT tổ chức từ ngày 3 đến 6-11-2013 tại Thượng Hải.

Đầu tư cho các trường hàng đầu nhằm đạt địa vị “ĐHĐCQT”

Đi đầu trong những đề xướng về tăng cường nguồn lực để tạo ra sựưu tú là Trung Quốc với dự án 985 và 211 đã được nói đến khá nhiều. Riêng dự án 211 từ 1996 đến 2000 đã phân phối cho 106 trường với tổng số tiền 2,2 tỉ USD. Hàn Quốc theo sau với dự án Brain Korea 21 (giai đoạn 1 từ 1999-2005 là 1,3 ngàn tỉ won, giai đoạn 2 từ 2006-2012 là 1,8 ngàn tỉ won, cả hai cộng lại tương đương với gần 3 tỉ USD (Geo-Suk Suh, Sang June Park). Đài Loan dành 85% kinh phí cho 12 trường đại học nghiên cứu (ĐHNC) của mình, vào khoảng 330 triệu USD mỗi năm. Các trường giảng dạy và ứng dụng còn lại chia nhau chỉ 15% cái bánh ngân sách nhà nước dành cho GDĐH (Akiyoshi Yonezawa và Angela Yung Chi Hou).

Số tiền đầu tư cho việc tạo ra sựưu tú này đã được sử dụng như thế nào và đạt được kết quả ra sao là một vấn đề lý thú. Kathryn Mohman đã thực hiện một nghiên cứu so sánh cực kỳ thú vị về 21 trường ĐHNC ở Trung Quốc đại lục, Nhật, Australia, Hongkong, các nước châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ nhằm trả lời câu hỏi: Những khoản đầu tư của quốc gia về ngân sách nghiên cứu đã tác động đến năng suất/ấn phẩm khoa học của các trường như thế nào; Phải chăng ưu tiên cho thứ hạng đã là động lực khiến các trường nhấn mạnh vào công bố khoa học hơn hẳn những hoạt động học thuật và đào tạo khác? Đầu tư nhiều tiền hơn liệu có tạo ra chất lượng kết quả cao hơn? Liệu các trường ĐH mới nổi ở châu Á có đang bắt kịp các trường lâu đời ở châu Âu và Bắc Mỹ xét về thành tựu nghiên cứu và uy tín? Và cuối cùng là: các bảng xếp hạng ĐH toàn cầu đã ảnh hưởng đến các trường ĐH nghiên cứu như thế nào.

Bảng sau đây cho thấy các trường đã tăng tỷ lệ kinh phí cho nghiên cứu như thế nào:

Ở 18/21 trường, kinh phí dành cho nghiên cứu đã tăng nhanh đáng kể so với kinh phí chung, tuy Hoa Kỳ là một ngoại lệ do sự sụt giảm ngân sách của liên bang. Các trường châu Á có mức tăng nhanh nhất. Một con số cũng rất có ý nghĩa, là nếu kinh phí nghiên cứu tính trên đầu giáo sư và nghiên cứu viên, thì Bắc Mỹ vượt rất xa các trường châu Á. Dẫn đầu là MIT với 210-250 ngàn USD
(2003-2010, quy đổi PPP), trong lúc ĐH Bắc Kinh khoảng 40-120 ngàn USD (2003-2010). Tuy nhiên, công bố khoa học, tính bình quân trên đầu giáo sư và nghiên cứu viên, thì Hongkong và Đài Loan dẫn đầu, trong lúc Bắc Mỹ vẫn vượt xa các trường Trung Quốc. Hình sau đây minh họa điều này:

Điều này cho thấy các trường châu Á đang tiến nhanh, tuy rằng giữa các trường có sự khác biệt rất lớn về năng suất công bố khoa học và chỉ số tác động. Tính trên đơn vị bài báo, trường này tiêu tốn hơn rất nhiều so với trường khác.

Vai trò của nhà nước

Chiến lược quốc gia về việc xây dựng các trường ĐHĐCQT đã là động lực thúc đẩy các trường tái định nghĩa lại hồ sơ năng lực của mình. Để tạo ra các trường mạnh, nhiều nước dùng đến chiến lược sáp nhập, hợp tác và liên kết. Phần Lan, Đan Mạch, Pháp, Australia, Nam Phi và Trung Quốc là những ví dụ thành công. Các trường ĐHĐCQT có xu hướng vươn ra hợp tác toàn cầu. Để hợp tác, liên kết, và nhất là sáp nhập, các trường phải xác định lại sứ mạng của mình. Có một điều chắc chắn là một vài trường ưu tú sẽ không thể nào đủ để phục vụ cho các nhu cầu đa dạng của quốc gia (Marijk van der Wende), bởi vậy vai trò của nhà nước trong việc tạo ra các ĐHĐCQT đối với các nước đang có tham vọng ấy là rất to lớn.

Mặc dù mục đích, lý do và tầm quan trọng của một hệ thống GDĐH đa dạng được công nhận rộng rãi, các nước châu Âu thường không chọn cách tiếp cận từ trên xuống. Họ đưa ra chính sách và các trường lựa chọn con đường và sứ mạng của mình dựa trên đặc điểm mạnh yếu của họ. Bản thân việc ủy thác vai trò và cương vị khác nhau cho từng trường là một việc khó khăn, và thách thức đặc biệt đối với nhà nước là làm cách nào để giữ được sự quân bình của hệ thống và tránh tình trạng trường nào cũng chạy đua để trở thành trường ĐHNC tạo ra hiện tượng lạc hướng về sứ mạng. Rất nhiều người lo rằng thành tích của các trường ĐHNC ĐCQT ở một số nước sẽ phải trả bằng cái giá đè lên vai tất cả các trường còn lại. Thách thức đối với những người làm chính sách là giữ được tương quan hợp lý giữa việc đầu tư cho một số đỉnh cao đồng thời duy trì được nguồn lực để phát triển hệ thống theo chiều rộng nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của quốc gia.

Hongkong cho chúng ta một bài học khác về vai trò lãnh đạo của nhà nước. Chính phủ lãnh đạo các trường thông qua những ưu tiên chính sách do Ủy ban Tài trợ Đại học và Hội đồng Tài trợ Nghiên cứu đề xuất. Đây là những cơ quan đệm, làm trung gian giữa các trường và nhà nước, một mặt bảo vệ tự do học thuật và quyền tự chủ của các trường, mặt khác đảm bảo tiền thuế của dân cấp cho các trường phải được sử dụng đúng đắn. Vai trò của các hội đồng này là tư vấn cho cả các trường lẫn nhà nước nhằm thúc đẩy chất lượng và hội nhập. Do vậy Hongkong không dành ưu tiên ngân sách cho một vài trường theo lối đầu tư trọng điểm, mà các quỹ nghiên cứu được phân phối trên nguyên tắc cạnh tranh. Thông qua việc đánh giá các dự án và cấp kinh phí nghiên cứu, các hội đồng này nhấn mạnh việc xây dựng năng lực đội ngũ và các điểm nhấn tạo ra lợi thế của Hongkong (Gerald A. Postiglione).

Trải nghiệm của các trường

Năm 2013, Hàn Quốc phát động một dự án có tên gọi Brain Korea 21 PLUS, nhằm xây dựng các trường ĐHĐCQT, dự kiến thực hiện từ năm 2013 đến 2019. Chiến lược của Hàn Quốc là chọn lựa một số trường, tập trung vào đào tạo sau ĐH. Bốn lĩnh vực chính là (1) Khoa học cơ bản và kỹ thuật; (2) Khoa học kỹ thuật ứng dụng; (3) Khoa học xã hội và nhân văn; (4) Các chuyên ngành dịch vụ như quản trị kinh doanh, y khoa và nha khoa. Để thực hiện chiến lược này, các trường Hàn Quốc tập trung mời các nhà khoa học danh tiếng, những người được giải Nobel đến làm việc với trường nhằm tạo điều kiện cho thế hệ nghiên cứu trẻ tiếp xúc với đỉnh cao của khoa học trong những lĩnh vực khoa học trọng yếu của quốc gia. Trọng tâm của dự án này là thúc đẩy tính chất quốc tế hóa của nhà trường, toàn cầu hóa lực lượng giáo sư nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu của đội ngũ và sức cạnh tranh của nhà trường. Dự án cũng hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu sinh sau ĐH, kể cả nghiên cứu sinh nước ngoài.

Ả Rập Saudi có một cách tiếp cận khác, nhấn mạnh vào vai trò của các nhà tư vấn quốc tế. Hệ thống giáo dục nước này xếp thứ 28/50 trong bảng xếp hạng của nhóm U21. Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ Trường Đại học Vương quốc Ả Rập (KAU) trở thành trường ĐHĐCQT bằng cách hào phóng cung cấp mọi nguồn tài chính mà nhà trường cần đến.

Bắt đầu đặt ra vấn đề cần có một hay hai trường ĐHĐCQT từ năm 2008, Rumani khởi động một dự án nhằm giúp một số trường cạnh tranh giành địa vị ĐHĐCQT vào năm 2011. Tuy nhiên, thiếu sự hỗ trợ mạnh mẽ của Bộ Giáo dục, thiếu một bộ khung pháp lý cần thiết, trở thành ĐHĐCQT dường như là nhiệm vụ bất khả đối với các trường ĐH Rumani.

Những nỗ lực lớn lao mà các trường và các nước đã bỏ ra trong thập niên qua nhằm xây dựng những trường ĐHĐCQT, bất kể kết quả đạt được ở mức độ nào, cũng đều mang lại cho chúng ta những bài học quý giá. Cuộc tranh đua này khiến người ta ý thức mạnh mẽ hơn bao giờ hết giá trị của tri thức cũng như tình trạng tương thuộc và cạnh tranh toàn cầu. Tuy vậy, giới nghiên cứu cũng nhận ra rằng, thứ hạng trên bảng xếp hạng toàn cầu không nên được xem là một mục đích tự thân, vì nó sẽ làm lệch hướng mục tiêu thực sự của một trường ĐHNC, là phục vụ cho những mục tiêu thiết thực cho xã hội và có ý nghĩa ích quốc lợi dân, tức là mang lại những tiến bộ trong khoa học, kỹ thuật, kinh tế và xã hội và làm thay đổi cuộc sống người dân.

Exit mobile version