Mới đây, một nghiên cứu của Wood Mackenzie cho thấy, nhu cầu khí đốt tại Việt Nam sẽ tăng gấp ba lần vào giai đoạn giữa những năm 2030.
Ngày 5/9 vừa qua, hội thảo “Khí Thiên Nhiên Hóa Lỏng (LNG): Thúc đẩy Sự Phát triển Bền vững của Việt Nam” đã diễn ra tại TP. Hồ Chí Minh, với sự tham gia phân tích chuyên sâu từ các chuyên gia đến từ công ty nghiên cứu và tư vấn thị trường năng lượng Wood Mackenzie và chia sẻ về các ứng dụng thực tế từ đại diện của PETRONAS – tập đoàn dầu khí quốc gia Malaysia.
Theo nghiên cứu của Wood Mackenzie, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phụ thuộc các khoản đầu tư chiến lược vào cơ sở hạ tầng khí đốt, hợp đồng khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) và những cải cách chính sách quan trọng, khi nhu cầu về khí đốt của quốc gia dự kiến tăng trung bình 12% mỗi năm và có thể tăng gấp ba lần vào giữa những năm 2030.
Tiêu thụ khí đốt sẽ tiếp tục tăng do nhu cầu năng lượng ngày càng cao hơn, từ 8 triệu tấn dầu quy đổi (Mtoe) vào năm 2020 lên 20 Mtoe vào năm 2035. Trong quá trình chuyển đổi này, tỷ trọng than tiêu thụ sẽ giảm 7 Mtoe vào năm 2050.
Ông Joshua Ngu, Phó Chủ tịch Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương của Wood Mackenzie, cho biết ngành điện lực sẽ tiếp tục dẫn đầu trong tiêu thụ khí đốt, với dự báo nhiên liệu này sẽ đóng góp tới 14% tổng sản lượng điện vào năm 2030.
“Việc phát điện từ khí đốt đang ngày càng cần thiết để hạn chế khả năng xảy ra tình trạng thiếu điện trong tương lai gần. Khi sản lượng điện từ than chững lại trong giai đoạn tới và năng lượng tái tạo tiếp tục đối mặt với những thách thức như hiệu suất gián đoạn hay các hạn chế của lưới điện, khí đốt và LNG sẽ là những nguồn nhiên liệu quan trọng đảm bảo an ninh năng lượng của quốc gia cũng như hỗ trợ kinh tế tăng trưởng bền vững.”, ông Joshua Ngu cho biết.
Bên cạnh nhu cầu khí đốt được dự báo tăng lên, Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức trong sản lượng nội địa. Các mỏ khí hiện tại (chủ yếu nằm ở khu vực Đông Nam Bộ) đang bước vào giai đoạn cạn dần, dẫn đến nguồn cung khí đốt nội địa giảm 25% trong 5 năm qua.
Tuy nhiên, với những dự án phát triển gần đây, như Quyết định đầu tư (FID) Lô B ở Lưu vực Malay, dự kiến sẽ tăng thêm 0,4 tỷ feet khối (tương đương 11.3 triệu mét khối) sản lượng khí đốt mỗi ngày (bcfd) vào năm 2030. Ngoài ra, việc xây dựng đường ống dẫn khí từ lô hợp đồng phân chia sản lượng dầu khí Tuna (Indonesia) ở Biển Natuna được kỳ vọng sẽ có thể vận chuyển khí đốt cho Việt Nam kể từ những năm 2030 trở đi.
Tiềm ẩn rủi ro biến động giá trong thị trường khí đốt Việt Nam do thiếu hụt nguồn cung LNG đảm bảo
Nghiên cứu của Wood Mackenzie cũng cho thấy Việt Nam hiện đang hoàn toàn tiếp xúc với thị trường khí LNG mua và giao ngay, chưa ký bất kỳ hợp đồng mua bán LNG dài hạn nào.
Ông Raghav Mathur, Chuyên gia Nghiên cứu và Phân tích lĩnh vực Khí đốt & LNG của Wood Mackenzie cho biết: “Thiếu hụt trong nguồn cung khí LNG theo hợp đồng, cùng với nguồn tài nguyên trong nước ngày càng cạn dần, làm tăng nguy cơ biến động giá ở Việt Nam cũng như nguy cơ mất điện hoặc phân phối khí đốt trong tương lai. Sự chênh lệch giữa giá điện sản xuất từ khí LNG, các hợp đồng mua bán điện, các dự án điện khí LNG chưa có nhiều tiến triển đã và đang trở thành những trở ngại đáng kể đối với việc ký kết hợp đồng LNG tại Việt Nam”.
Cơ sở hạ tầng mới và các chính sách hỗ trợ là rất cần thiết
Wood Mackenzie cũng cho biết việc phát triển cơ sở hạ tầng khí đốt mới sẽ giảm bớt lo ngại về tình trạng thiếu khí đốt. Mạng lưới đường ống chính của Việt Nam hiện tập trung ở khu vực phía Nam, nơi có trung tâm kinh tế TP. Hồ Chí Minh. Hai kho cảng khí LNG đã được xây dựng ở miền Nam Việt Nam, với cảng LNG Thị Vải đã hoạt động và cảng Hải Linh dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào tháng 9 năm 2024. Một số công trình kho cảng LNG khác đang ở giai đoạn nghiên cứu tính khả thi và dự kiến có thể đi vào hoạt động vào đầu những năm 2030.
Theo phân tích của Wood Mackenzie, Việt Nam có thể phát triển thêm quan hệ hợp tác với các nhà cung cấp giải pháp có khả năng đáp ứng yêu cầu của quốc gia. Hiện nay, có nhiều nhà cung cấp uy tín đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có thể kể đến PETRONAS.
Là một trong những nhà sản xuất LNG tích hợp lớn nhất thế giới, PETRONAS sản xuất hơn 36 triệu tấn khí LNG mỗi năm với các cơ sở ở Bintulu, Úc, Ai Cập và sắp tới là Canada. Mạng lưới rộng lớn này củng cố thương hiệu uy tín của PETRONAS để cung cấp khí LNG cho Việt Nam.