Vương Hồng Sển (1902-1996), bút hiệu Anh Vương, Vân Đường, Đạt Cổ Trai, là một nhà văn hóa, học giả, nhà sưu tập đồ cổ Việt Nam. Ông được xem là người có hiểu biết sâu rộng về miền Nam và rất được kính trọng trong giới sử học và khảo cổ ở Việt Nam. Khi qua đời ông đã hiến tặng ngôi nhà (Vân đường phủ) và toàn bộ sưu tập đồ cổ của mình cho Nhà nước. Trên Tập san Sử Địa số 05, 30.1.1967, tòa soạn đã đăng bài viết “Cảm tưởng về Tết trong Nam” của cụ Vương (viết ngày 13 tháng 12 năm 1966). Với cái nhìn hoài niệm về Tết khoảng thập niên 30 – 40 của thế kỷ trước, tác giả đã đề cập đến những chi tiết rất cụ thể về những cổ tục mà một số bây giờ đã biến đổi hoặc không còn nữa.
Cũng như miền Bắc, miền Trung người miền Nam bắt đầu đón tết từ việc quét tước dọn dẹp nhà cửa sau một năm làm ăn tất bật, tay lấm chân bùn “Mấy chục năm về trước, Miền nam gồm toàn người củi lụt làm ăn, đầu tắt mặt tối, quanh năm chơn lấm tay bùn, lặn lội eo sèo trong sình lầy nước thúi, chỉ có mỗi lần Tết đến mới có dịp nhớ đến ngôi nhà đang ở và ra công quyét tước dọn dẹp từ trên trang thờ đến bếp núc ông Táo ông Vôi, một năm chỉ có một lần ấy mà thôi”.
Người miền Nam xưa vẫn giữ lệ trồng cây nêu “Nhà nào có vườn có sân thì đốn tre trồng nêu để nhắc lại cổ tục chầu xưa, nhà nào ở chợ búa phố xá hẹp hòi thì cũng treo cờ trước cửa cho gió bay mấp máy thấy đủ vui mắt”. Cây nêu ở đây là cây tre dài khoảng 5-6m, được dựng trước sân nhà vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch, là ngày Táo quân chầu Trời. Trên ngọn nêu có buộc nhiều thứ như cái túi nhỏ đựng trầu cau và ống sáo, những miếng kim loại lớn nhỏ. Khi có giỏ thổi chúng chạm vào nhau và phát ra tiếng leng keng như tiếng phong linh, rất vui tai.
Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu… Trong những ngày Tết cổ truyền, vào buổi tối trên cây nêu có nơi còn treo một đèn lồng nhằm chỉ đường cho tổ tiên biết đường về ăn Tết với con cháu. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp, là ngày Táo quân về trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo quân, ma quỷ thường nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.
Người miền Nam xưa vẫn giữ tục dán liễn đối vào hai bên cột, nơi bàn thờ gia tiên với những câu đối mang ý nghĩa giáo huấn, ca tụng công đức của tiên tổ. “nhà nhà bất luận sang hèn, dẫu ọp ẹp bằng tre lợp lá chằm lá khíu, cũng có đôi liễn mới dán đỏ cột”.
Trên bàn thời gia tiên ở miền Nam thường có chưng lộc bình và bộ lư hương. Năm hết tết đến nhà nhà đem bộ lư hương xuống làm sạch gọi “chùi lư”. Khi “chùi lư” phải chùi thật sạch để bộ lư sáng loáng “trên bàn thờ tổ tiên sao sao cũng có lộc bình, quả tử, nhứt là phải có bộ lư đồng và cặp chưn đèn thau o bế chùi bóng nhoáng rất nên thơ”.
Thế nên trong cái nhìn hoài niệm, cụ Vương cảm thán khi hồi tưởng lại những năm tháng tuổi thơ: “Nhớ đến phong tục chùi lư mà tiếc hối buổi xuân thời: lúc nào còn bé thơ, mãi sợ nạn chùi lư vì mỏi tay thêm mất dịp đi xin bánh và đi lượm pháo tịt ngòi. Nay đã khôn già thì người lớn đã khuất hết, tiếc cho mình nay không còn cha mẹ để được bắt chùi lư!”. Những đoạn tiếp theo cụ Vương Hồng Sển thể hiện sự tiếc nuối của mình vì chiến tranh tao loạn mà gia đình đã để mất đi bộ lư hương quý.
Giờ có tiền muốn mua lại cũng không được vì chỉ có “đồ hàng” không sắc sảo như những bộ lư xưa: “Lối năm 1920, bộ lư đồng năm tấc bề cao, giá độ năm chục đồng bạc lớn, nhưng năm chục đồng bạc ấy lớn thật, có bao nhiêu ấy mua sắm lung tung và giá trị năm chục đồng bạc 1920 còn lớn hơn năm ngàn bạc ngày nay xa lắc! Có thứ lư thau trơn dễ chùi, ở trên chóp đỉnh có đặt con lân giỡn trái châu, đứng nhe răng cười “cầu phúc”, có thứ lư gồ ghề rất khó chùi cho bóng, vì lư làm theo kiểu “lư mắt tre”, lư “trúc hóa lân”. Lư trơn láng thì phải lựa thứ kiểu thật rôm, xứng trái xứng bề cao. Lư mắt tre thì phải lựa cho được thật hùng vĩ, bặm trợn, cân xứng y gốc tre già cỗi đã biến hình thành con thú, con lân”.
Kế đến tác giả đã tỉ mỉ thuật lại quá trình “chùi lư” của người miền Nam xưa “Muốn chùi lư cho bóng, lọ là phải có dầu bóng hiệu Tây-u cho thêm tốn nhiều tiền. Miễn có khế chua đập giập lấy nước chua chấm với tro bếp thật mặn, chấm với “c.. bần” cọ xát thật mạnh thì bao nhiêu ten rỉ cũng sạch. Lư khéo chùi là đến khi nào bóng sáng đến ngó thấy mặt tỏ rõ, nhưng bóng lộn không chưa đủ, thuở ấy con mắt mỹ thuật còn kén thi nhau khoe khéo khoe tài. Giỏi chùi và biết “trau lư” là nhà nào lư bóng như kiếng soi thêm toàn trên da đồng, tìm không thấy lằn gạch lằn trầy, lằn rễ tre vằn sọc”.
Người Nam bộ xưa quan niệm nhà cửa sau một năm thì dọn dẹp cho quang quẻ thì con người cũng thế. Sau một năm tối mắt tối muỗi với ruộng đồng thì họ cũng sẽ sắm sanh áo mới và việc ấy cũng lại rất thiêng liêng: “Xưa muốn cắt áo phải tra lịch lựa ngày, và trẻ nít phải đợi đến Tết mới có dịp cha mẹ may cho cái quần lãnh Bắc Thảo hay cái áo lá liễu bằng củng xá hay hàng lụa Tứ Xuyên bền chắc”.
Do chỉ đến cuối năm mới có áo mới, nên đó chính là niềm mong đợi của trẻ con tuy nhiên khi đời sống vật chất được nâng lên, người ta có thể mua đồ mới cho con trẻ bất cứ khi nào thấy cần thì niềm vui chờ đợi áo tết lại không còn vẹn nguyên như xưa “Ngày nay đâu còn hạnh phúc mừng xuân đến “không nhắm mắt được” và tục chờ mau đến Tết để được bận đồ mới!”.
Chơi trò đổ Tam Hường chỉ cần có bộ hột xúc xắc (còn gọi là hột xí ngầu) và bộ thẻ, có được một tô sứ to, sâu lòng để bung hột xúc sắc nữa thì tốt. Các thẻ trong bộ Tam Hường được mang tên những học vị đạt được trong thi cử thời xưa. Cách chơi chỉ cần bung vào tô sứ 6 hột xúc xắc, qua các mặt xúc xắc hiện lên, theo quy định mà người chơi giật được thẻ Trạng nguyên, thẻ Bảng nhãn hay Thám hoa, hay Tiến sĩ… Tên gọi các thẻ xăm phần nào đã thể hiện khát vọng đạt được khoa bảng của sĩ tử ngày xưa, phần nào đó cũng thể hiện được tính thanh tao của một trò chơi nho nhã.
Trẻ con Nam Bộ xưa cũng đã chơi trò này như một thú tiêu khiển vào những ngày Tết: “Tượng trưng “ăn Tết” đối với trẻ con buổi ấy là mỗi lần cận Tết, đêm nào cũng nghe cô bác “đỗ Tam Hường” tiếng hột lút lắt ngà nhảy bồng trong tô da kiểu, tiếng xu bạc khua khi chung tiền, tiếng cười giòn khi đổ được Trạng Nguyên, Bảng Nhãn hoặc khiêm tốn chỉ đỗ “Ngũ tử phò tứ”, tức là sáu hột có năm mặt chữ “Ngũ” và một mặt tứ màu hồng”.
Đến chiều ba mươi Tết, người Nam bộ cũng cúng kiến để rước gia tiên về xum vầy bên con cháu mà Vương hồng Sển gọi là cúng “vào Khem”. Cũng kể từ đây những cử chỉ hành vi của mỗi người trong gia đình phải thủ lễ kiêng khem vì người Nam bộ quan niệm ”Cứ từ chạng vạng tối bắt đầu phải giữ gìn cho trong nhà bình tịnh, không nên cười lớn và khi nói phải lựa lời, cử chỉ phải thanh bai lễ giáo vì hiểu rằng vào khem trong nhà có rước vong ông bà quá vãng về sống chung ba ngày xuân nhựt với con cái, nên phải thủ lễ. Lại nữa cũng tin tưởng, tin rằng đêm ba mươi rạng mồng một Tết, có ông Hành cũ và mới đến nên trong nhà nhỏ lớn đều kiêng không “động đất”. Và cũng từ quan niệm trên đã hình thành nên mỹ tục đẹp trong văn hóa Tết của người Nam bộ “nhiều gia giáo ngày nay còn giữ được lệ cấm nói tục tĩu ba ngày Tết và bớt rầy la con cháu khi lâm lỗi buổi đầu xuân, ý tốt muốn giữ là mong năm mới và suốt năm ăn nói thanh bai thì sẽ trọn năm không xúi quảy”.
Người Nam bộ xưa còn có những tục thú vị trong đêm trừ tịch như xem tim đèn cháy, nghe tiếng con vật đầu tiên kêu trong năm mới để báo điềm lành: “Tết đến lại có dịp vặn máy hát thức xem đèn dầu, tim bằng cỏ bấc trổ bông báo điềm lành và nhờ đêm thanh tịnh không tiếng súng nổ mà cũng không tiếng máy bay rầm rầm, nên cổ nhân canh chừng mới biết được “con thú gì ra đời”: gà gáy đem lại thăng bình hay chuột túc con bày điềm sang năm sung túc”.
Về ăn uống, với hương vị những loại bánh trái đặc trưng của Nam Bộ như bánh phồng, bánh tét cũng gợi ra trong học giả Vương Hồng Sển biết bao kí ức đẹp. Đó cũng chính là những nét đẹp của văn hóa Tết Nam bộ “tiếng chày giòn quen tai cận Tết giã gạo làm bánh phồng dịp dầu Xuân và khói lửa chiến chinh đã dập tắt lửa cuối năm nấu bánh tét bánh chưng. Ngày nay muốn ăn những bánh khiêu gợi Tết, đã phải nhờ quán khách làm sẵn, chớ còn đâu lửa reo vui mắt bữa chưng bánh chung quanh gia đình đoàn tụ, ông kỹ sư tóc hoa râm, đứng chờ bánh nói chuyện với nhà học giả quá mùa, xúm xít gần bà mẹ tuy lụm cụm nhưng không khứng bỏ tục cổ truyền. Hai ông tân nhơn vật tuy bụng chứa đầy văn minh Âu Mỹ, nhưng trong lòng thỉnh thoảng vẫn thèm vẫn nhớ miếng bánh phồng nướng bằng lửa rơm thơm ngát, hay miếng bánh nhưn đậu giữa có cục mỡ béo bùi của đòn bánh tét gói và nấu tại gia, bánh ấy tuy xấu mặt nhưng hương vị đặc biệt đã đánh lui các bánh tây bánh ngoại quốc dồn vào kẹt tủ buổi Tân Xuân”. Tác giả so sánh rượu Tàu, rượu Tây để rồi đúc kết lời khuyên “Sao cho bằng uống mỹ tửu quốc hồn”. và cái mà Vương Hồng Sển gọi là “mỹ tửu quốc hồn” chính là rượu đế Thủ Đức, “Xứ Cai Lậy (Mỹ Tho) có đặt rượu đậu nành nước trắng trong khe, mùi thơm ngon ngọt có thua gì rượu Tây, rượu lục vị, Pháp danh là Anisette”.
Ngoài ra Vương Hồng Sển có nhắc lại một cổ tục của người Nam Bộ xưa, mà ngày nay đã mai một “Nhắc lại một phong tục nhỏ trong Nam. Ba ngày Tết trong nầy ăn dồn thịt kho, thịt lạp xường và vịt phơi khô, nhiều ngày quá nên lợm giọng, vì thế qua ngày mồng bốn Tết có lệ “cúng tất”, tết nhà tết cửa. Ngày ấy nấu bữa cơm cúng đất đai ông bà, lễ tất, đại để có tục lệ cắt giấy kim ngân ra hình vuông hình hồ lô để dán vào cột cửa tủ bàn và dâng lên bàn thờ Tổ tiên “nồi cháo cá ám”. Cũng thì cháo cá nhưng cháo nấu kiểu cá luộc chần thì vẫn cá luộc sơ và xắt khúc, không để nguyên con, còn trái lại “cháo cá ám” là nấu nồi cháo rất kỹ, cá để nguyên con không chặt ra khúc và khi nấu nồi cháo vẫn không đậy nắp vung (nấu ám). Theo tôi đây là món thuốc vệ sanh trừ độc của ông bà lưu truyền lại, vì ba ngày tết ăn mỡ đã nhiều, qua mồng bốn ăn tô cháo ám có rau ghém chát xắt nhỏ, chuối cây non và rau thơm, vừa nhẹ lòng khoan khoái thêm ngon miệng, trở bữa, nghệ thuật bí quyết trường sanh là đó!”. Có thể nói đây là một tục hay thể hiện sự minh triết trong văn hóa ẩm thực của người Nam Bộ.
Người Nam Bộ từ xưa đến nay vẫn giữ tục lì xì tiền cho con trẻ mong chúng mau ăn chóng lớn học hành giỏi giang “… độ nào phải chờ Tết đến mới có dịp cho trẻ con thấy đồng xu đỏ au và bạc cắc phong gói trong tờ giấy làm gói “lì xì” tân niên. Được vài ba gói trẻ đã mừng húm, nhờ vậy mà con nít chóng lớn và người lớn thấy vậy cũng phấn khởi thấy đời thêm vui”. Tuy nhiên có thể thấy khởi nguyên tục này xưa kia người lớn chỉ lì xì tượng trưng, chủ yếu đề cao giá trị tinh thần thế nhưng chính từ thời Vương Hồng Sển sống mỹ tục này ít nhiều đã biến tướng “Ngày nay đổi đời, trẻ con đi học đã có bạc ngàn bỏ túi, và thử cho trẻ một tờ giấy bạc năm trăm, chưa thấy nó mừng bắng lớp trước đây, được thưởng nửa đồng bạc đã cắp ca cắp củm để dành và đó là sưu tập phẩm cà rô bi (roupie) hiếm có”.
Bên cạnh đó tục xin lộc đầu năm cũng đã có trong tâm thức người Nam bộ “Mấy năm gần đây có tục lệ đầu năm đi xin xăm nơi miếu Tả Quân trong Gia Định, báo hại các bà di cư ham hái lộc như thuở nào ở ngoài kia, báo hại kiểng cây kiểng gốc trong Lăng trụi lủi lá cành. Xin lộc là một phong tục cổ kính của xứ có hoa đào hoa hồng hoa thủy tiên. Đất Nam Trung ít bông nhiều lá làm gì có hoa chời chở để hái lộc?”. Nhưng với tục này chính bản thân cụ Vương cũng đã thấy cái thô lậu của nó không phù hợp để duy trì trong hệ thống văn hóa Tết của người Nam bộ.
Bài viết kết thúc bằng những trăn trở vẫn vẹn nguyên tính thời sự “Tục thờ kiếng ông bà đã xem nhẹ hơn xưa và cái lễ Tết là lễ nhớ người chết đã trở nên ngày xả hơi vui chơi của người sống. Chúng ta có thể giản dị hóa phần nào những gì phiền phức rườm rà, nhưng không nên để cho mất ý nghĩa của cái Tết cổ truyền của một xứ lấy việc nông tang làm gốc, chớ nên quá duy vật mảng ăn chơi vui sướng cho mình mà quên câu “mộc bổn thủy nguyên” trước có ông bà sau mới có ta vậy. Theo tôi, ngày Tết Nguyên Đán phải được bảo tồn với bao nhiêu cổ tục của nó”. Năm mới bàn lại bài viết cũ của cụ Vương âu cũng là cách để hiểu thêm về tấm lòng của một con người luôn đau đáu suy tư về những giá trị hóa đẹp của Nam Bộ nói riêng cũng như của văn hóa Việt nam nói chung.
- Xem thêm: Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?