Cuối thập niên 1960, tại Đại học Văn khoa Cần Thơ, tôi được học với GS Lưu Khôn. Trong giáo trình Phê bình văn học, thầy có nhắc đến nhà văn Kiều Thanh Quế với tấm lòng trân trọng, và hướng dẫn sinh viên rất cặn kẽ về các trường phái phê bình.
Sau khi đỗ Cử nhân Văn khoa (1972), tôi lên Sài Gòn tiếp tục ghi danh Cao học Văn chương do GS. Bửu Cầm (1920-2010) bảo trợ tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Khi soạn tiểu luận, có dịp tiếp xúc với các GS. Thanh Lãng (1924-1978), GS. Phạm Thế Ngũ (1921-2000), nhà phê bình Thiếu Sơn, nhà thơ Mộng Tuyết (1914-2007), nhà văn Sơn Nam (1926-2008), nhà thơ Nguyễn Vỹ (1912-1971),… tôi lại được nghe các vị nhắc đến Kiều Thanh Quế, với lòng trân trọng một nhà phê bình xuất sắc của văn học miền Nam.
Kiều Thanh Quế (1917-1947) là tên thật cùa nhà văn. Ông có các bút danh: Mộc Khuê, Quế Lang, Tô Kiều Phương, Nguyễn Văn Hai. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước tại Bà Rịa-Vũng Tàu, Kiều Thanh Quế có hai người em. Em trai là Kiều Nguyên Trung đã tham gia kháng chiến nay đã nghỉ hưu. Người em gái Kiều Thị Vạn là một cơ sở cách mạng nay đã mất. Thuở nhỏ, Kiều Thanh Quế học tiểu học tại Bà Rịa, sau đó lên Sài Gòn học tại Trường Trung học Pétrus Ký và cũng bắt đầu hoạt động trong các tổ chức yêu nước. Tốt nghiệp văn bằng Thành Chung (Diplôme d’Études Complémentaires) ông đi dạy học tại Tư thục Nguyễn Văn Khuê, nhưng chỉ được 2 năm, Kiều Thanh Quế xin nghỉ dạy. Tình hình lúc bấy giờ, không khí đấu tranh sôi động của nhân dân Nam bộ đã nhen nhóm những tình cảm yêu nước trong tính cách và tâm hồn của chàng trai đất đỏ miền Đông. Định mệnh đã gắn chặt Kiều Thanh Quế với con đường nghệ thuật khi những truyện ngắn đầu tay được đăng trên tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy vào những năm 1929 với bút danh Quế Lang. Tinh thần chống thực dân không chỉ tiềm ẩn trong những bài viết đăng báo mà còn thể hiện qua hành động tấn công một người Ấn có quốc tịch Pháp thu thuế chợ. Nhân sự kiện này, cộng với những mối lo vốn có từ trước, thực dân Pháp đã bắt, quản thúc nhà văn tại Bà Rá, một hiểm địa đầy ma thiêng chướng khí mà Pháp dành để lưu đày những người yêu nước lúc bấy giờ. Một thời gian sau, Kiều Thanh Quế được chuyển về Cần Thơ. Sống giữa vòng kìm kẹp của mật thám, Kiều Thanh Quế vẫn nhiệt tình với nền văn học dân tộc, nuôi trong lòng ngọn lửa đấu tranh và sáng tạo văn chương. Không ngừng theo dõi những bước đi của nền văn học, Kiều Thanh Quế đã có những đóng góp xuất sắc những công trình sáng giá cho nền phê bình văn học nước nhà còn đang phát triển như: Ba mươi năm văn học (1941), Phê bình văn học (1942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Thi hào Tagore (1943) ký là Nguyễn Văn Hai, tên một người bạn vốn là con của một ân nhân đã tận tình đùm bọc nhà văn trong thời gian bị thực dân giam lỏng tại đất Tây Đô.
Kiều Thanh Quế viết rất nhiều bài phê bình văn học cho báo Tri Tân, như: Lều chõng, Cuộc hội ngộ Lan Khai-Sweig ’Tội và thương’ gặp’La peur’, Phê bình ‘Hàn Mặc Tử’ của Trần Thanh Mại,… Trước đó, trên tờ báo Mai của Đào Trinh Nhất, Kiều Thanh Quế đã có một loạt bài làm xôn xao giới phê bình văn học lúc bấy giờ như: Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Làm đĩ, Thanh niên S.O.S, Người đàn bà trần truồng và quan niệm tình dục trong văn chương Việt Nam (Mai, 27.9.1939),… Dù sở trường ở lĩnh vực phê bình, Kiều Thanh Quế vẫn không thờ ơ với địa hạt nhạy cảm của xã hội là vấn đề tình dục. Nhà văn đã viết hai cuốn tiểu thuyết về chủ đề luyến ái: Hai mươi tuổi (NXB. Đức Lưu Phương, 1940) và Đứa Con tội ác (NXB. Mai Lĩnh, 1941).
- Xem thêm: Chữ “danh” của người quân tử
Sau sáng tác thử nghiệm với tiểu thuyết không mấy thành công, Kiều Thanh Quế quay lại với thế mạnh nổi bật của ông là nghiên cứu – phê bình văn học. Một ngòi bút nhọn sắc bén, với nhận thức hợp lý, sâu sắc và tinh tế, Kiều Thanh Quế không ngại mạnh dạn chỉa mũi dùi vào các bậc nhà văn: Phan Khôi (1887-1959), Ngô Tất Tố (1894-1954), Hồ Biểu Chánh (1884-1958), Xuân Diệu (1916-1985), Lan Khai (1906-1946), Đoàn Phú Tứ (1910-1989),…
Vào những thập niên đầu thế kỷ 20, trong hoàn cảnh phức tạp của chính trị và những bộn bề của đời sống văn học và báo chí, vì một tư lợi nào đó, không ít nhà phê bình chưa làm tròn chức năng phê bình là “Tìm Đẹp trong Nghệ thuật” theo lý tưởng “Chân Thiện Mỹ” mà thiên về phê bình quảng cáo: “Lối phê bình quảng cáo của nhiều nhà báo ở nước ta (và cả ở nước Pháp nữa) chỉ giá trị bằng những lời rao của bọn trẻ bán báo – không hơn không kém! Hoặc nhận tiền của nhà xuất bản, hoặc vì cảm tình riêng với tác giả, các nhà phê bình quảng cáo hạ giá ngòi bút, viết lên mặt báo những lời ca ngợi xem hớ hênh đến buồn cười” (Kiều Thanh Quế).
Đọc kỹ lại những tác phẩm phê bình của Kiều Thanh Quế, độc giả có thể nhận ra tác giả viết mỗi cuốn theo một ý đồ rõ ràng. Quyển Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam cho độc giả một cái nhìn tổng quát trước về các chặng đường đi và sử phát triển của văn học nước nhà từ thuở có chữ nghĩa cho tới thập niên thứ ba của nửa đầu thế kỷ trước. Cuốn Ba mươi năm văn học được coi là một sự tính sổ cụ thể hơn văn học Việt Nam trong giai đoạn 1920-1950, qua lăng kính phê bình của Kiều Thanh Quế. Ở cuốn Phê bình văn học, Kiều Thanh Quế trước tiên định nghĩa thể loại phê bình, sau đó tiến hành phê bình các nhà văn nổi tiếng Pháp Émile Zola, Vũ Trọng Phụng.
Theo ông, phê bình văn học là linh hồn của đời sống văn học, nhà văn không làm việc quảng cáo như kiểu con buôn, trả thù như một số đàn bà hoặc tiểu nhân, mà để chính đáng giới thiệu những người có tài năng, kẻ tài hoa không may bị chìm đắm trong bóng tối. Kiều Thanh Quế còn hăm hở cộng tác với các nhà văn nổi tiếng, nhằm tạo cho nền văn học nước nhà ngày thêm có được những áng văn chương sáng giá. Nhà văn Kiều Thanh Quế đã trân trọng giới thiệu những khuôn mặt phê bình tiêu biểu trong văn học Việt Nam như: Hoài Thanh, Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Đặng Thai Mai, Thiếu Sơn, Thái Phỉ, Trương Tửu, Lê Thanh, Trần Thanh Mại, Phan Văn Hùm, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan… Chính Kiều Thanh Quế cũng nói thêm một cách chí lý là văn học dịch thuật đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học mới của dân tộc nên rất cần phát triển thêm bộ phận văn học dịch thuật để làm phong phú, màu sắc thêm cho nền văn học nước nhà.
Phê bình là phân tích, nhận xét rồi đánh giá tức là nêu lên ưu, khuyết điểm của một tác phẩm văn học hay nghệ thuật. Công việc này đòi hỏi những điều kiện khác biệt hơn là sáng tác một bài thơ, bài văn hay một truyện ngắn, tiểu thuyết. Trong khi người làm thơ, viết truyện chỉ cần trời nhễu cho ý hay, từ lạ – một tia chớp từ Tối Thượng hay Nàng Thơ ưu ái tặng cho thi nhân – là có thể làm thành bài thơ, nên trên thế giới xưa nay chỉ có thần đồng thi ca còn ở tuổi rất nhỏ nhưng chưa hề có thần đồng phê bình.
Theo thiển ý, lĩnh vực phê bình văn học nghiêm khắc yêu cầu con người trước hết phải có kiến thức uyên thâm, thông thạo ngoại ngữ nhiều càng tốt, đọc nhiều tác phẩm văn học trong và ngoài nước. Thứ đến là nhà phê bình cần có một cảm xúc thẩm mỹ, một khối óc phân tích tinh tế và một khả năng nhận định sâu sắc để đánh giá ưu, khuyết điểm tác phẩm khách quan và vô tư. Nghĩ như vậy, nhưng cũng không đặt ra vấn đề học hàm, học vị nhất thiết phải có ở nhà phê bình cơ bản có vốn tự học uyên thâm thường gọi là học giả. Ví dụ những nhà phê bình nổi tiếng thế giới như: Kim Thánh Thán (Trung Quốc, 1606 hoặc 1610-1661) và các nhà phê bình Pháp như: Boileau (1636-1711), Saint Beuve (1804-1869), Hippolyte Taine (1828-1893),
Nhớ đến nhà văn – nhà phê bình Kiều Thanh Quế với tác phẩm Ba mươi năm văn học, ta chợt cảm thấy ngậm ngùi thương tiếc, nghĩ đến cuộc đời gắn bó với văn chương chỉ sống được 30 năm ngắn ngủi của một nhà văn yêu nước, hơn nữa là một nhà phê bình đích thực, xứng đáng với kiến thức, bàn lĩnh, tầm vóc của ông trong văn học dân tộc. GS. Thanh Lãng nhận định Kiều Thanh Quế là “người thứ nhất phác họa một bộ mặt của văn học mới, ghi nhận sự diễn tiến của văn học mới và vẽ thoáng được cái đồ biểu đường tiến hóa của văn học mới”.
Trong tác phẩm Nhà văn phê bình do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1996, những tác giả uy tín biên soạn đã giới thiệu 18 nhà nghiên cứu – phê bình văn học giai đoạn 1932-1945 trong đó, bên cạnh những nhà phê bình nổi tiếng như: Phan Khôi, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh,… Kiều Thanh Quế hiện diện chính thức với chân dung trang trọng của một trong những nhà nghiên cứu – phê bình hàng đầu của nền văn học Việt Nam vào thời đó, đồng thời là nhà phê bình yêu nước khả kính và duy nhất của không gian văn học Nam bộ.
Từ khi nền văn học chữ quốc ngữ được hình thành, từng bước, thể loại phê bình văn học đến với bạn đọc. Ngoài những nhà phê bình đã nổi tiếng như: Hoài Thanh (1909-1982), Đặng Thai Mai (1902-1984), Vũ Ngọc Phan (1902-1987), Thiếu Sơn (1908-1978),… ở Nam bộ, giới văn học, sinh viên học sinh vẫn không quên Kiều Thanh Quế, một nhà phê bình chuyên nghiệp, giàu kiến thức, với nhiều tác phẩm phê bình-nghiên cứu, sáng tác (đa phần in tại Nxb. Tân Việt) với một bản lĩnh vững vàng của một nhà văn yêu nước.