Mục đích (của giáo dục) phải là đào tạo những cá nhân biết tự hành động và tư duy độc lập, nhưng lại nhìn thấy nhiệm vụ cao cả nhất của cuộc đời trong sự phục vụ cộng đồng.
– Albert Einstein –
Sức mạnh lớn nhất của Einstein với tư cách nhà khoa học là tính không chạy theo lề thói. Ông từ chối chấp nhận quyền uy và quy ước. Điều đó đúng không những trong khoa học của ông. Nó cũng còn hiển nhiên trong cách nhìn chính trị và trong đời sống cá nhân của ông.
– Walter Isaacson –
[1]
Tiến trình lịch sử nhân loại sẽ không có những tiến bộ như chúng ta thấy hôm nay nếu không có tư duy khoa học độc lập. Nếu chỉ biết lập lại tất cả những tư tưởng của các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại, thì như Francis Bacon bốn thế kỷ trước nhận xét, thế giới không có khoa học hiện đại cũng như cuộc cách mạng công nghệ thế kỷ 18 ở Anh, mở màn cho cuộc chinh phục tự nhiên với quy mô lớn trong mưu cầu hạnh phúc nhân loại. Cũng sẽ không có đại học, nơi truyền bá tri thức và nghiên cứu khoa học. Một trong những „khí chất“ nổi trội của các dân tộc châu Âu là tư duy khoa học, logic, độc lập, óc tò mò và sự thôi thúc không ngừng khám phá cái mới, ngay cả khi nó phải thách thức quyền thống trị xã hội như từng xảy ra đối với Nhà thờ La Mã.
Ở Albert Einstein, những tính chất này có thể nói hội tụ đến đỉnh điểm. Nói „tư duy độc lập“ nhưng điều đó không phải dễ và đến tự nhiên với mỗi con người. Thực tế, ngoài những tiến bộ khoa học không thể chối cãi, nhân loại còn có một „kho chứa“ khổng lồ của đủ loại định kiến, mà các nhà khoa học, nghiên cứu phải từng bước loại bỏ. Nhưng với Einstein thì khác.
Ông là người “phản biện” hùng hồn, thuyết phục nhất, tượng trưng một mẫu người „tư duy ngoài hệ thống“, chứng minh giá trị ưu việt của khái niệm tự do, độc lập trong tư duy và cả trong cuộc sống, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm và lương tâm đạo đức và dấn thân của mình đối với cộng đồng. Ông là con người giải phóng, giải phóng mình ra khỏi mọi thứ quyền lực để có được tư duy độc lập. Ông tiếp nối truyền thống của Spinoza, Kant và Goethe, dẹp bỏ những rào cản của ước lệ, khuôn mẫu làm cản trở tư duy, để mang lại cho trí tuệ sức sống đích thực của nó. Ông để lại cho nhân loại một tấm gương thế nào là tư duy độc lập, là sáng tạo. Những gì Einstein phát biểu về giáo dục đều được cuộc đời ông „bảo chứng“.
Những khám phá của Albert Einstein, tượng đại vĩ đại của cuộc cách mạng khoa học vĩ đại diễn ra ở đầu thế kỷ 20, đều phản ánh một lối tư duy độc lập, „phản biện“, độc đáo, và diễn ra bên ngoài bộ máy hàn lâm, không theo lề thói cũ. Ông được ví như nhà kiến tạo (creator) và kẻ nổi loạn (rebel).
[2]
Điều quan trọng là người ta không ngừng đặt câu hỏi.
Sự lớn lao trong khoa học thực chất chỉ là một vấn đề cá tính (character).
– Albert Einstein –
Ông nổi tiếng là người có cá tính rất mạnh ngay từ tuổi trẻ, và có tính tự học theo sở thích riêng của mình. Ở tuổi 15, ông đã dám bỏ trường trung học Maximilian Munich nổi tiếng của Đức là loại “trường thông thái” để đi qua Thụy Sỹ học, vì không thích không khí kỹ luật quân sự và sự kỳ thị chủng tộc ở đó. Trong thời gian theo học ở Đại học ETH, Zürich, ông lập một nhóm bạn gọi là Olympia Academy để tự học và thảo luận những chủ đề quan trọng trong triết học cũng như khoa học để định hướng phát triển cho mình. Ông phải tự học thuyết điện từ của Maxwell rất mới mẻ lúc đó chưa được dạy ở đại học, vì ông cảm nhận thuyết này có tính cách mạng, thuyết thật sự sẽ có mối liên quan đến Thuyết tương đối hẹp của ông sau đó. Ông bị giáo sư toán của mình ở đại học ETH Zurich, Hermann Minkowski, chê bay là sinh viên “lười biếng hay bỏ học”, cho đến khi vị này đọc được Thuyết tương đối hẹp của ông năm 1905 mới giật mình về thành tựu đặc sắc của người học trò “lười biếng” mấy năm trước của mình.
Einstein dám từ bỏ những nơi khuất tối, nhà nước, nhà trường, hay lớp học, thầy giáo, để tự đi tìm ánh sáng cho mình muốn nhắm tới bằng những phương tiện tự học. Đó quả là sự “lập thân” hết sức táo bạo. Bởi ông sẵn sàng chấp nhận mọi thiệt thòi của đời thường để đi theo lý tưởng khoa học của mình mà ông tin là quan trọng hơn. Đó là thái độ hết sức dũng cảm của người đi tìm chân lý. Và có lẽ chỉ như thế, ông mới khai phá những con đường chưa ai khai phá cả.
Khi thế chiến I nổ ra, ông là một trong ba nhà khoa học ở Đức chống lại chiến tranh bất chấp sự thật rằng tuyệt đại đa số giới trí thức Đức đã nồng nhiệt ủng hộ chiến tranh. Ngay cả Planck, người đã „triệu“ ông từ Bern về Berlin, cũng ủng hộ chiến tranh. Toàn bộ giới tinh hoa xung quanh ông đều như thế. Ông và hai đồng nghiệp khác viết Lời kêu gọi người châu Âu, kêu gọi họ hãy đoàn kết nhau chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa này để bảo tồn nền văn hoá của Châu Âu trước sự huỷ diệt. “Trong giai đoạn như thế này người ta mới thấy mình thuộc về giống loài đáng buồn nào”, như ông viết cho người bạn ở Hoà lan. Ông làm điều đó bất chấp nguy hiểm có thể xảy đến cho ông, bởi ông là người trẻ tuổi được hưởng ưu đãi cao nhất có thể có được của nhà nước Phổ. Và ở Mỹ, ông là người không chút ngại ngùng chống lại chủ nghĩa McCarthy, và chống lại chính sách kỳ thị chủng tộc của Mỹ. Ông luôn luôn giữ tính độc lập và yêu chuộng sự thật, công lý của mình.
Về khoa học, phẩm chất đặc biệt nhất là óc tò mò thánh thiện mạnh mẽ của ông. Hãy nghe Einstein trả lời khi được hỏi vì sao ông đã tìm thấy thuyết tương đối hẹp:
Nếu tự hỏi từ đâu tôi đã thiết lập nên lý thuyết tương đối, thì câu trả lời dường như nằm ở điều sau đây: người lớn bình thường hầu như không suy nghĩ về những vấn đề thời gian và không gian. Anh ta nghĩ rằng mình đã làm điều đó từ nhỏ rồi. Tôi ngược lại phát triển chậm về mặt trí tuệ đến nỗi tôi bắt đầu ngạc nhiên về không gian và thời gian khi tôi đã lớn rồi. Một cách tự nhiên, tôi đã thâm nhập vào toàn bộ vấn đề sâu hơn những đứa trẻ có năng khiếu phát triển bình thường khác.”
Ông lập đi lập lại:
Tôi không thông minh hơn người thường nào. Tôi đơn giản chỉ tò mò hơn một người trung bình, và tôi không bỏ cuộc trước một vấn đề cho đến khi tôi tìm được giải đáp. […] Không phải thông minh hơn là quan trọng, mà tò mò hơn và có lẽ kiên nhẫn hơn trong vấn đề tìm giải đáp cho một bài toán.
Óc tò mò, và tình yêu khoa học đã giúp ông vượt qua mọi khó khăn không thỏa hiệp để tiếp tục nghiên cứu khoa học dù trong hoàn cảnh không thuận lợi nào, như trong thời gian làm tại Sở Sáng chế Thụy Sỹ.
“Mùa thu năm 1912 tôi lần đầu tiên ý thức rằng thuyết “tương đối của thời gian” của Einstein đang trở thành một tin chấn động thế giới. Vào lúc đó, ở Zurich, tôi thấy có một tờ báo Vienna chạy một tít lớn ‘Phút giây nguy hiểm, một tin chấn động của Khoa học Toán.’ Trong bài báo một giáo sư vật lý giải thích cho công chúng kinh ngạc rằng bằng một mẹo toán chưa từng thấy một nhà vật lý có tên Einstein đã chứng minh thành công rằng với những điều kiện nhất định, thời gian tự nó có thể co lại hay giản ra, rằng nó đôi khi đi nhanh hơn và lúc khác chậm hơn. Ý tưởng này thay đổi hoàn toàn quan niệm về mối quan hệ giữa con người và vũ trụ. Con người đã đến, rồi đi, các thế hệ trôi qua, nhưng dòng thời gian vẫn không thay đổi. Nhưng với Einstein, điều này đã chấm dứt.”
– Philipp Frank, Einstein: His Life and Times
Albert Einstein lúc 17 tuổi. Đối với ông, thi tốt nghiệp trung học là một “cơn ác mộng” gây tác hại về tâm lý cho học sinh như ông viết trong một bài báo (1917). “Cho nên hãy hủy bỏ kỳ thi tú tài!” như ông kêu gọi.
[3]
Tại sao Albert Einstein lại khám phá được nhiều điều cách mạng như thế, và mỗi khám phá là một chấn động thế giới, ngay cả sau khi ông mất rồi? Có nhiều mạch nước đỗ vào dòng suối này. Vì ông sớm có tính tự lập được thể hiện trong cuộc sống; có đam mê mạnh mẽ đối với khoa học, và kiên trì theo đuổi những bài toán ông đặt ra hàng chục năm liền; có tư duy độc lập không theo lề thói, không bị giam cầm trong những tín điều có sẵn dù đúng hàng thế kỷ.
Câu nói nổi tiếng của Einstein, điều quan trọng là người ta không ngừng đặt câu hỏi, là kim chỉ nam cho hoạt động khoa học của ông. Không đặt câu hỏi có nghĩa là chấp nhận ít nhiều những quan niệm đang hiện hữu. Nhưng để có đủ bản lãnh để tự khẳng định mình mà không bị lạc lối, ông phải tự học rất nhiều theo sự dẫn dắt trực giác của ông. Ông nổi tiếng với quan điểm cho rằng óc tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, có thể gây hiểu lầm. Chỉ có óc tưởng tượng thôi mà thiếu kiến thức cần thiết, điều đó có thể dẫn đến hoang tưởng tai hại.
Tư duy độc lập còn là sống thật với chính mình, là authentic, không sống theo ý nghĩ của người khác. Goethe từng nói: “Một đứa trẻ, một người trẻ, nếu họ đi nhầm trên con đường của chính họ, đối với tôi vẫn hơn những người đi đúng trên con đường lạ (không phải của họ).”
Nói như Abraham Lincoln, vị Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ:
Thiên tài cao ngất xem thường lối mòn đã đi. Họ tìm những vùng đất chưa bao giờ khai phá. Họ không tìm sự khác biệt trong việc thêm bớt một hai chi tiết ở những tượng đài của sự nổi tiếng được dựng lên trong ký ức của những người khác. […] Họ ghét bước theo dấu chân của bất cứ ai khác, dù nổi tiếng đến đâu. Họ khao khát cháy bỏng sự khác biệt.
Đó có thể bản khắc họa phần nào cho Einstein, mặc dù ông không phải ngay từ đầu “khao khát cháy bỏng sự khác biệt”, mà ông khao khát cháy bỏng hiểu sự vận hành của vũ trụ.
[4]
Giáo dục trung học là nền tảng định hình những con người trẻ cho nên vô cùng quan trọng, và ông đã trải nghiệm nhiều loại giáo dục khác nhau, ở Đức và Thụy Sĩ. Chúng ta hãy nghe vài nhận định từ tâm hồn nhạy bén của ông:
Kiến thức là chết, trong khi trường học là người phục vụ cho cuộc sống. Trường học nên làm cho những phẩm chất và năng lực, những thứ có có giá trị cho sự phát triển của cộng đồng, nảy nở trong những cá nhân trẻ tuổi. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là tính cách cá nhân nên bị đánh mất đi, để cá nhân trở thành một công cụ không ý chí của cộng đồng, như con ong, con kiến. Bởi vì, một cộng đồng của những con người được tiêu chuẩn hóa không có đặc tính cá nhân và mục tiêu riêng của nó sẽ là một cộng đồng nghèo nàn không có những năng lực phát triển. Ngược lại, mục đích phải là đào tạo những cá nhân biết tự hành động và tư duy độc lập, nhưng lại nhìn thấy nhiệm vụ cao cả nhất của cuộc đời trong sự phục vụ cộng đồng. (Einstein, Về Giáo dục, trong Từ những năm sau của tôi)
Một xã hội mà con người không có tư duy độc lập, hay bị „tiêu chuẩn hóa” theo một nghĩa nhất định, sẽ khó có cơ hội phát triển một cách sáng tạo như ông nói: “Bởi vì tất cả những gì vĩ đại và cao cả đều được tạo ra bởi cá nhân trong sự phấn đấu tự do.” Chính cá nhân tạo ra tài sản văn hoá cho nhân loại. Ông nói: “Có thể dễ dàng nhận thấy rằng tất cả những tài sản vật chất, tinh thần và đạo đức mà chúng ta nhận được từ xã hội xuất phát từ những nhân cách đơn lẻ qua vô số thế hệ.[…] Chỉ cá nhân đơn lẻ mới tư duy và qua đó mới tạo ra những giá trị mới cho xã hội.”
Đừng bao giờ xem việc học của các bạn là một bổn phận, mà là cơ hội đáng ganh tị để học hỏi vẻ đẹp khai phóng trong lãnh vực trí tuệ – vì niềm vui cá nhân của bạn và vì lợi ích của cộng đồng mà công việc sau này của bạn sẽ thuộc về.
– Albert Einstein –
Ông diễn tả trong Thế giới như tôi nhìn:
Chỉ cá nhân riêng lẻ mới có thể tư duy và qua đó tạo ra những giá trị mới, tạo ra cả những tiêu chuẩn đạo đức mới mà dựa theo đó cuộc sống của cộng đồng phát triển. Không có những cá nhân sáng tạo, tự biết tư duy và phán đoán thì khó hình dung một sự phát triển cao của cộng đồng cũng như khó hình dung sự phát triển của các cá nhân riêng lẻ mà không có miếng đất nuôi dưỡng của cộng đồng. Một xã hội lành mạnh được gắn liền với tính tự chủ của các cá nhân cũng như với sự gắn bó xã hội sâu sắc của họ.
Năm 1900 ông tốt nghiệp trường Bách khoa Zurich với bằng cử nhân. Cảm tưởng của ông sau những kỳ thi:
Tất nhiên, điều bắt buộc là bạn phải tự nhồi nhét tất cả mớ hỗn độn này vào cho kỳ thi, dù bạn muốn hay không. Sự ép buộc này có tác dụng làm nản chí đến mức sau khi vượt qua kỳ thi cuối kỳ, tôi không còn hứng thú gì nữa nghĩ đến các vấn đề khoa học trong cả năm.
Và ông ngạc nhiên
Thật giống như một phép lạ, rằng hệ thống giảng dạy hiện đại vẫn chưa hoàn toàn giết chết óc tò mò thiêng liêng của nghiên cứu; bởi vì cây con mảnh mai này ngoài sự kích thích, chính yếu cần đến tự do; nếu không có thứ này, chắc chắn nó sẽ héo tàn. Thật là một sai lầm lớn khi tin rằng niềm vui trong việc quan sát và tìm kiếm có thể được thúc đẩy bởi sự cưỡng bức và ý thức trách nhiệm. Tôi nghĩ người ta có thể đánh mất tính háo ăn ngay cả của một con thú săn mồi lành mạnh nếu cứ bắt nó tiếp tục ăn dưới roi vọt ngay cả khi nó không đói, đặc biệt khi người ta dưới sự ép buộc như vậy lựa tự chọn cho nó những thức ăn theo cách người ta muốn.
Ghi chú tự sự – Autobiographical Notes
Lối giáo dục dùng cưỡng bách, gây sợ hãi là tai hại:
Đối với tôi, có lẻ điều tồi tệ nhất là khi một trường học hoạt động chính yếu với các biện pháp của sợ hãi, ép buộc và quyền lực giả tạo. Cách hành xử như vậy tiêu diệt các cảm xúc lành mạnh, sự chân thành và tự tin của học sinh. Nó tạo ra các thần dân khúm núm. […]
Einstein Về Giáo dục, như trên
có thể dẫn đến những hậu quả khốc liệt lâu dài cho trẻ em:
Sự làm nhục và trấn áp tinh thần bởi những thầy thiếu hiểu biết và ích kỷ đã gây ra sự tàn phá nặng nề và không xóa được trong một tâm hồn non trẻ, và điều đó thường gây ra ảnh hưởng tai họa trong cuộc sống sau này.
Tưởng niệm Paul Ehrenfest, Từ những năm sau của tôi
NGHỆ THUẬT LÀM THẦY
Nghệ thuật quan trọng nhất của người thầy là đánh thức niềm vui ở sáng tạo và nhận thức.
Es ist die wichtigste Kunst des Lehrers, die Freude am Schaffen und am Erkennen zu wecken.
– Albert Einstein –
Câu nói trên được gắn trên bảng đồng tại Tòa nhà thiên văn trường college thành phố Pasadena, giờ gọi là Pasadena Junior College, PCC, California, ngày 26 tháng 2 năm 1931, sau một bài phát biểu của ông tại đó. (Courtesy of the Caltech Archives.)
[5]
Einstein là người thể hiện trung thực những nguyên tắc giáo dục có tính khai phóng và nhân văn đó. Ông muốn trước nhất là một con người, một chủ thể, không phải một công cụ, và có trách nhiệm với cộng đồng:
Dạy con người một chuyên môn là chưa đủ. Thông qua đó, anh ta có thể trở thành một loại máy hữu dụng, nhưng không phải là một nhân cách phát triển hài hòa. Nhưng quan trọng là anh ta phải có một cảm giác sinh động về cái gì đáng giá để phấn đấu. Anh ta phải có một cảm giác sinh động về cái gì đẹp và tốt về mặt đạo lý.
Chỉ trong một môi trường giáo dục lành mạnh, có đủ tự do như khí trời thì từ sâu thẳm của nội tâm, con người mới tự biết mình khao khát, đam mê gì như chính bản thân ông đã trải nghiệm thời trung học ở Thụy Sĩ. Nhưng tự do không đơn thuần là tự do từ ngoài, mà cũng từ bên trong, từ quan niệm sống, trong chừng mực nào độc lập với những sự ham muốn vật chất hay danh vọng. “Những mục tiêu tầm thường của cuộc đấu tranh của con người: sở hữu, thành công, xa xỉ, đối với tôi từ những năm niên thiếu là đáng khinh” như ông nói. Ông sẵn sàng từ bỏ hết những thứ đó để giữ được độc lập và tự do. Có lẽ vì thế mà ông không bị vướng bận dưới chân để có thể đi xa đến những chân trời khám phá vĩ đại, và cũng là một nhân cách vĩ đại mà nhân loại có được.
Einstein giải thích tiếp về loại tự do cần thiết cho sáng tạo và phát triển:
Sự phát triển của khoa học và các hoạt động sáng tạo tinh thần nói chung còn đòi hỏi một thứ tự do khác, có thể được đặc trưng là tự do nội tâm từ bên trong. Cốt lõi của loại tự do tinh thần này nằm ở sự độc lập của tư tưởng khỏi những hạn chế từ những định kiến xã hội và độc đoán, cũng như khỏi các lệ thường và thói quen thiếu tính triết học nói chung. Tự do nội tại này là một món quà hiếm có của tự nhiên và là một mục tiêu đáng giá cho cá nhân phấn đấu. Tuy nhiên, cộng đồng cũng có đóng góp nhiều hơn nữa cho mục tiêu này, ít ra bằng cách không can thiệp vào sự phát triển của nó. Do đó, nhà trường có thể cản trở sự phát triển của tự do nội tại qua những ảnh hưởng độc đoán và sự áp đặt lên người trẻ gánh nặng tinh thần quá mức; mặt khác, trường học có thể hỗ trợ tự do này bằng cách khuyến khích tư duy độc lập. Chỉ khi tự do ngoại tại và nội tại được theo đuổi một cách liên tục và có ý thức, tinh thần mới có khả năng phát triển và trở nên hoàn hảo, và do đó, có ích cho việc cải thiện đời sống ngoại tại và nội tại của con người.
Trong Tự do và Khoa học 1940, Từ những năm sau của tôi
Những gì có thể giết chết tư duy độc lập? Một trong những thứ đó là sự học quá tải:
Điều quan trọng sống còn đối với một nền giáo dục quý giá là tư duy phê phán độc lập được phát triển trong người trẻ, một sự phát triển bị đe dọa rất lớn khi làm anh ta bị làm cho quá tải với quá nhiều thứ, và quá nhiều chủ đề (hệ thống điểm). Quá tải tất yếu dẫn đến sự hời hợt.
Trong Giáo dục Tư duy độc lập, NYT, 5 tháng 10, 1952
Và sự đề cao tính hữu dụng ngắn hạn, sự cạnh tranh và chuyên môn hóa quá sớm, Einstein viết:
Quá nhấn mạnh lên chế độ cạnh tranh và chuyên môn hóa quá sớm trên cơ sở lợi ích tức thời sẽ giết chết tinh thần mà tất cả đời sống văn hóa được xây dựng trên đó, bao gồm cả kiến thức chuyên môn.
Giáo dục Tư duy độc lập. Như trên
Einstein có tình yêu khoa học mãnh liệt, nhưng không phải để thần tượng hóa những chân lý hóa thạch, hay tôn sùng như những thánh tượng bất khả xâm phạm, mà yêu để khám phá, để tìm “Bảng đồ của Chúa” như ông nói. Và để khám phá, trước tiên phải có tư duy độc lập và đủ tự do nội tâm cũng như ngoại tại.
Tôi hy vọng với những trình bày trên đã nói lên được phần nào những nét căn bản của Einstein về giáo dục, tính độc lập trong tư duy, và tính cách nhân văn khai phóng con người ông. “Trên đầu tôi bầu trời đầy sao. Bên trong tôi định luật đạo đức” của Kant có lẽ đặc trưng con người của Einstein.
[6]
Nhìn sang phương Đông, nhà khai sáng Fukuzawa nhận định:
Văn minh Khổng giáo của phương Đông đối với tôi dường như thiếu mất hai thứ mà văn minh phương Tây có: khoa học trong lãnh vực vật chất, và “độc lập” trong lãnh vực tinh thần. […] Nếu các quốc gia, và dài hạn, nhân loại muốn tồn tại được, chúng ta không thể bỏ qua các định luật của khoa học, và phải đặt niềm tin của chúng ta vào nguyên lý của độc lập. […] Nhưng ở Nhật Bản các nguyên lý này đã hoàn toàn bị sao lãng, và trong khi đó, tôi tin rằng Nhật Bản không bao giờ có thể ngang bằng với các quốc gia phương tây.
Đó là tiếng chuông Fukuzawa muốn going lên. Sự chuyển biến quốc gia chỉ có thể diễn ra mạnh mẽ trên cơ sở của nền tảng khoa học và giáo dục giúp con người tư duy độc lập, thoát khỏi thói quen suy nghĩ mơ hồ, không cơ sở, cũng như thiếu tinh thần độc lập và yêu chuộng chân lý. Nhà triết học Friedrich Nietzsche cuối thế kỷ 19 từng viết, châu Á chưa phải là “trường học của lý tính”, nghĩa là chưa suy nghĩ khoa học, và bảo vệ được những gì mình nói bằng chứng minh. Thực tế, các nhà khai sáng Nhật Bản Minh Trị ý thức sâu sắc sức mạnh của phương Tây nằm ở khoa học, giáo dục hiện đại và các thể chế, định chế thích hợp để phát triển tối đa những thứ đó trên cả bình diện quốc gia. Cuộc canh tân Nhật Bản cũng nhắm vào mục đích tối hậu đó. Khai sáng chỉ trên trên giấy không thể nào làm cho “quốc phú, binh cường” được. Phải có “thực học” như chủ đề nổi tiếng của Fukuzawa trong quyển sách Khuyến học của ông, hay như Francis Bacon bốn thế kỷ trước.