Họ tên đầy đủ của ông ta là N e b u c h a d n e z z a r Nebuchadnezzarson. Sự thực là tôi quên mất tên ông ấy, hay đúng hơn là chưa bao giờ nghe đến danh xưng của kẻ quá cố, cũng như tên người phụ nữ duy nhất hiện diện trong đám tang ông ta.
Mọi chuyện bắt đầu khi tôi đang là một sinh viên trọ học ở Reykjavik trong căn phòng nhỏ dưới tầng hầm, được ngăn với lò sưởi bằng một tấm vách mỏng tồi tàn. Vào một mùa đông nọ, tôi chợt nghe thấy thứ giai điệu thường vang lên lúc xế chiều khi lò sưởi bắt đầu được đốt lên. Giọng hát trầm khàn như những gợn sóng lăn tăn lan tỏa, tới nốt nhạc cuối dường như ca sĩ quên không lấy hơi nên tắt lịm rồi im bặt, như thể người hát bỗng dưng chìm đi cùng bản nhạc. Một lúc lâu sau vẫn là sự im lặng bao trùm… Và rồi một âm thanh rất nhỏ nữa khe khẽ vang lên, thật khó gọi đó là một ca khúc với đoạn dừng dài đến như vậy.
Nhưng rõ ràng giai điệu ấy vẫn đang tiếp tục ngân lên trong lồng ngực người ca sĩ, dù rằng giọng ca trầm khàn chỉ rung nhè nhẹ trong đường thanh quản. Tuyệt nhiên không bao giờ người hát lại bỏ dở giữa chừng giai điệu ngắn ngủi với nốt nhạc kéo dài lê thê đó, thứ giai điệu trầm hùng chắc hẳn là để dành cho một bản giao hưởng hoành tráng. Vậy là giọng hát bí ẩn ấy đã cất lên suốt cả mùa đông dài dằng dặc, hết đêm này sang đêm khác giữa bầu không gian tĩnh mịch. Cho tới khi quyết định tìm hiểu rõ hơn về ca khúc mỗi lúc xế chiều ấy, tôi mới phát hiện ra đấy là giọng ca của người chuyên trông coi lò sưởi.
Nhưng cứ vào độ nửa đêm ông ta lại lật đật ra đi… Một buổi chiều tôi bước vào căn phòng nhỏ nơi đặt chiếc lò sưởi cho cả khu nhà. Than hồng cháy đỏ sau cánh cửa khép hờ. Phía trước lò sưởi, ông Nebuchadnezzarson đang ngồi và hát. – Xin chào – Tôi mở lời. – Xin chào – Lời đáp vang lên trong bóng tối bằng giọng già nua khàn khàn. – Ở đây ấm thật – Tôi nói. – Nhưng tôi phải đi đây – Người đốt lò cho biết. – Đây không phải là phòng của bác sao? – Tôi tò mò hỏi. – Không – Ông ta trả lời. – Không phải à? – Tôi hỏi tiếp – Nhưng cháu thường nghe thấy bác hát tại đây vào mỗi lúc xế chiều kia mà? – Tôi đâu có hát! – Người đối diện quả quyết. – Nhưng rõ ràng là cháu có nghe thấy – Tôi lên tiếng phản đối. – Không – Ông ta đáp – Tôi không bao giờ có thể hát được nữa. – Cháu luôn nghe rõ một giai điệu cụ thể. Người thợ đốt lò lẩm bẩm câu gì đó, trước khi cố trườn qua cánh cửa sau lưng tôi. – Quả thực cháu đâu muốn quấy rầy bác – Tôi xuống giọng. – Đến giờ đi ngủ rồi – Ông ta nói rồi biến mất dạng. Một lần trong tuyết lạnh và sương mù, tôi nhìn thấy một chiếc hộp đàn dương cầm tại đoạn góc khuất giữa hai tầng nhà.
Đó là nơi Nebuchadnezzar sống. Có lẽ người đàn ông say mê với âm nhạc là nhờ ngủ trong chiếc hộp đàn này chăng? Tôi thầm nghĩ. Vài buổi chiều qua đi trong yên ả. Nhưng đến một hôm dường như quên mất sự hiện diện của tôi, người thợ đốt lò lại bắt đầu hát. Cũng vẫn giai điệu ấy, cũng vẫn nốt nhạc kéo dài và chết lặng… Tôi liền bước vào phòng. – Chào bác – Tôi nói. – Chào anh – Chủ nhân nhã nhặn đáp. – Bác đang hát – Tôi quyết định hỏi cho ra nhẽ. – Không – Ông ta lắc đầu. – Bác đã học ca khúc này ở đâu vậy? – Tôi đánh bạo hỏi. – Ca khúc ư? Chẳng có khúc nhạc nào cả. – Nhưng cháu thấy bác thường xuyên hát điệu nhạc này mà? – Tôi không hát – Chủ nhân khẳng định lại – Tôi không bao giờ làm được điều đó. – Thế bác vừa mới lầm rầm cái gì vậy – Tôi hơi cao giọng. – Thực ra trước đây tôi có thể cất tiếng hát được – Người đối diện tỏ ra cởi mở hơn – Nhưng đó là chuyện hồi xưa. Giờ thì tôi thậm chí không nghĩ tới điều ấy nữa. Đơn giản lúc này tôi chỉ ngồi đây, đợi cho lò sưởi bén lửa rồi lại ra đi. – Vậy bác từ đâu đến đây vậy? – Tôi không nén nổi sự hiếu kỳ vốn có. – Miền Tây. – Chính xác hơn là ở vùng nào? – Olafsvik. – Nơi đó đẹp chứ bác? – Biển ở quê tôi cũng dữ dội giống như bất cứ đâu – Bác thợ lò khoát tay. – Thế bác có còn bà con ở đấy không? – Họ chết cả rồi. – Vậy bác làm gì dưới miền Tây? – Tôi làm gì à? – Chủ nhân lưỡng lự – Thì đi bất cứ đâu tôi thích. Khi thì xuống biển, lúc lại lên núi… Tùy hứng cả thôi. – Tại sao bác đến Reykjavik? Yên lặng một lúc lâu, cuối cùng ông ta đáp: – Tất cả cũng chỉ vì miền Tây. Đúng, miền Tây. – Bác hoàn toàn có lý khi chuyển tới đây – Tôi nói – Dù sao sống ở chốn phồn hoa đô hội vẫn hơn bất cứ nơi nào khác. Chủ nhân ngồi trên chiếc rương nhỏ kê gần lò sưởi, nhìn xuống vết thủng há miệng trên đôi giày cũ mèm: – Thực ra đêm đầu tiên ở đây tôi đã ngủ ngoài nghĩa địa. – Có thật vậy không bác? – Tôi la lên đầy hưng phấn – Rất nhiều người cảm thấy mãn nguyện khi được qua đêm ngoài nghĩa trang. – Đúng thế… – Chủ nhân phụ họa. – Giày bác hư rồi – Tôi cố tình chuyển đề tài. – Chẳng hề gì. Tôi nhặt được nó ở Vatnsmyri hơn một năm trước.
- Xem thêm: Tiếng gọi bên kia cổng
Ai đó đã bỏ quên trên bãi than bùn. Người thợ lò liền đứng dậy, bỏ nón ra và treo lên cái đinh phía sau lò sưởi. Đó là loại nón hình trái dưa mà cánh thương gia thường đội khi chúng còn mới, đằng này lỗ thủng to tướng nơi đỉnh chóp chứng tỏ chiếc nón đã bị chủ nhân cũ loại bỏ từ lâu. – Cháu có thể coi chiếc nón của bác chứ? – Tôi nói rồi nheo mắt nhìn trần nhà qua vết thủng đằng chóp – Chiếc nón này nát quá rồi, nhưng chủ nhân cũ của nó chắc cũng thuộc hàng khá giả đấy… Tôi đưa trả bác thợ đốt lò chiếc nón. Ông ta cầm lấy rồi cũng nheo mắt nhìn qua lỗ thủng. – Không phải ai cũng đọc được Kinh thánh qua cái lỗ này – Chủ nhân phá lên cười đồng thời để lộ một chiếc răng cửa duy nhất.
Rồi mùa xuân đến, còn nhiều kỳ thi quan trọng đang đợi phía trước nên tôi ít để ý đến mọi chuyện xung quanh. Bỗng một hôm có một gia đình mới chuyển đến căn hộ ở tầng giữa ngôi nhà. Đó là một cặp vợ chồng cùng cô con gái chừng tám tuổi. Tên cô bé là Lily và qua dáng bên ngoài tôi đoán họ là những người từ dưới tỉnh lên, bởi mái tóc vàng hoe của Lily thường tết đuôi sam và bé thường đi những đôi tất len tự đan lấy. Lily hay chơi với bọn trẻ trong sân ngay ngoài cửa sổ phòng tôi, còn bà mẹ thì không rời mắt khỏi cô con gái rượu dù chỉ một giây. Hầu như suốt ngày bà ta đứng tựa vào cánh cửa sổ lầu một, chỉ đạo cô bé như một vị chỉ huy với những mệnh lệnh cương quyết.
Còn ven hàng rào, người thợ đốt lò đang say sưa ngắm nhìn tụi nhóc nô đùa dưới sân. Sự hân hoan của ông hiện rõ trên gương mặt lấm lem râu ria lởm chởm. Một ngày qua đi, lũ trẻ mệt nhoài liền chạy về nhà kiếm chút gì đó để ăn. Chỉ còn lại Lily một mình chơi nhảy lò cò trong sân. Bác Nebuchadnezzar liền cất tiếng gọi: – Lily! Nhưng xem ra cô bé vờ như không nghe thấy, mắt cứ nhìn xuống chân như thể giành chiến thắng trong trò chơi mới là điều quan trọng nhất… – Lily bé bỏng ơi! – Tiếng gọi tha thiết lại cất lên. Cô bé vẫn tiếp tục giả vờ không nghe thấy… Một lát sau mới ngước nhìn về phía cửa sổ xem mẹ mình còn ở đó không, nhưng chắc bà mẹ vừa mới vào bếp để sửa soạn cho bữa tối. – Chẳng lẽ bé Lily không có gì để nói với lão già Nebuchadnezzar hôm nay sao? Ông hỏi vọng tới từ hướng bờ rào, rồi rút trong túi ra một gói giấy nhỏ được giấu kín suốt từ nãy tới giờ.
Lúc này cô bé đã bước ra phía ngoài đường, tay chắp sau lưng với vẻ nghi ngờ, rồi cúi xuống nhìn vào túi giấy. Sau đó Lily lại ngước lên phía cửa sổ. Trong túi đầy ắp nho khô. Cô bé tỏ vẻ chẳng ngạc nhiên chút nào… Nhưng cuối cùng thì hai người đã cùng ngồi xuống ven hàng rào, miệng nhai nhóp nhép. Thoạt đầu Lily chỉ đưa chân một cách rụt rè và nhìn một cách đầy chê trách bộ ria làm biếng cạo của người đối diện. Nhưng rồi cô lại tiếp tục chơi lò cò ngoài cổng, ngay trước mặt bác Nebuchadnezzar. Rồi mẹ cô xuất hiện trên cửa sổ kêu về ăn tối. Nhưng chỉ chớp mắt sau Lily lại xuất hiện vì cô thừa biết rằng vẫn còn nho trong túi…
Rồi mùa xuân cũng lặng lẽ trôi qua, nhưng từ trước đó rất lâu Lily đã không còn nghi ngại bác Nebuchadnezzar nữa. Cô thường cố tình chạy lại mỗi khi thấy ông đi đến, thò tay vô túi ông lôi ra một bịch nho khô. Đôi khi vào những buổi chiều tà họ thường ngồi lại rất lâu ven bờ rào, tôi đoan chắc rằng bác Nebuchadnezzar đang kể chuyện gì đó cho cô bé nghe, bởi vì trông Lily như muốn nuốt chửng từng lời ông nói. – Thế họ có họ hàng gì với bác không? – Tôi hỏi bác thợ đốt lò về cặp vợ chồng mới đến. – Họ tới từ miền Tây. – Vậy bác có biết gì về họ không? – Có chứ – Bác Nebuchadnezzar quả quyết – Đó là bé Lily cũng với mái tóc vàng hoe. Thú thực tôi không thể hiểu được người đàn ông này. Với tôi ông ấy có vẻ khá xa lạ, nhưng tôi cũng chẳng mấy băn khoăn về điều đó.
- Xem thêm: Chuyện đã qua lâu lắm rồi!
Chẳng liên quan gì đến tôi cả, bởi tôi còn nhiều việc khác phải lo nghĩ. Và thậm chí đột nhiên tôi phát hiện ra rằng những người kia không phải đến từ miền Tây, mà là từ miền Đông thì tôi cũng chẳng hơi sức đâu đi nói lại với ông già lẩn thẩn này. Khi ấy ông Nebuchadnezzar mới hai mươi tuổi, tôi nghe ông kể vậy và họ thường gặp nhau. Cô ấy trẻ hơn ông vài tháng. Bác Nebuchadnezzar hứa sẽ xây cho người tình trẻ đẹp một ngôi nhà nhỏ ở Snout, căn nhà có thảm cỏ cùng vườn rau xinh xắn. Bấy giờ ông đang đi tàu đánh cá cùng Gudmundur, viên thuyền trưởng của con tàu Dreams.
Công việc khá suôn sẻ, nhưng ông không thể hát được nữa. Tên cô ấy là Lily. – Rồi mọi chuyện thế nào? – Cô bé hàng xóm háo hức hỏi. Nhưng tôi chẳng đủ thời gian để nghe lỏm câu chuyện giữa hai người lâu hơn nữa. Tôi nghĩ thầm rằng chắc bác Nebuchadnezzar lại kể cho cô bé nghe một câu chuyện cũ rích nào đó thời còn ở dưới miền Tây. Rồi mùa thu đến, tôi trở lại Reykjavik từ phương Bắc sau đợt thực tập bắt buộc. Một hôm tôi đang đứng tán gẫu với mấy người bạn đồng học nơi góc phố, chợt nhận ra có một người đàn ông gần đó cứ nhìn mình chằm chằm.
Sau khi chia tay đám bạn, ông ta tiến lại gần tôi và chìa bàn tay lem luốc ra: – Nebuchadnezzar Nebuchadnezzarson. – Chắc ông muốn điều gì phải không? – Tôi ngạc nhiên hỏi. – Đâu có – Người đối diện khẽ đáp – Đơn giản tôi chỉ muốn thử xem anh có nhận ra tôi không thôi. – Tất nhiên – Tôi siết chặt tay bác Nebuchadnezzar – Hơn thế nữa là cháu vẫn còn nhớ khúc nhạc trầm buồn của chúng ta. Thế còn cô bạn nhỏ thuở nào ra sao rồi? – Họ đã cắt khoản tiền dưỡng lão của tôi rồi – Bác Nebuchadnezzar thở hắt ra – Những ba chục euro chứ ít ỏi gì đâu. – Tại sao vậy? – Joseph tố cáo với cơ quan bảo hiểm rằng tôi chỉ dùng số tiền đó để mua nho khô thôi. – Gã Joseph đê tiện ấy là ai? – Một người bà con xa. Thỉnh thoảng hắn mang đến cho tôi vài món đồ thực phẩm hạ giá. – Hãy nghe đây – Tôi cố an ủi – Bác nên gặp người có trách nhiệm trình bày hoàn cảnh của mình. – Chẳng biết ra sao nữa, nhưng có thể mùa đông này tôi sẽ được trợ cấp chỗ ở đấy. – Thế bác không còn trông lò sưởi tại ngôi nhà năm ngoái nữa à? – Tôi phân vân hỏi. – Không! Mọi chuyện trong căn nhà đó đã hết rồi. Hoàn toàn chấm dứt! – Chuyện thế nào thưa bác? – À, tôi bị vỡ nợ nên chẳng còn khoản nào gửi về xây nhà dưới miền Tây nữa – Bác Nebuchadnezzar cho biết trước khi đội cái nón quả dưa lên đầu – Thôi chào anh nhé. Xin cảm ơn lòng tốt của anh. Mãi nhiều năm sau tôi mới gặp lại Nebuchadnezzar Nebuchadnezzarson trong một hoàn cảnh thật trớ trêu.
Lúc này tôi đã là bác sĩ tại một bệnh viện thuộc Học viện y khoa Reykjavik. Thi thể của bác được quấn trong một tấm khăn trải giường khi đem vào nhà xác. Người ta tìm thấy kẻ xấu số trong chiếc hộp đàn piano, cũng như không ai biết tên tuổi hay quê quán của người vừa được đưa tới, huống hồ điều gì từng là mục đích chính trong cuộc đời ông ta. Lúc khám nghiệm tử thi, thậm chí tôi cũng không nhớ nổi giai điệu quen thuộc mà bác Nebuchadnezzar từng hát. Chỉ có một điều chắc chắn là xác kẻ vô gia cư đã được cắt ra thành nhiều mảnh phục vụ công tác nghiên cứu khoa học.
Toàn bộ xương được tháo rời và đánh bóng, còn hộp sọ được dùng làm vật phẩm mẫu trong giảng dạy, mọi thứ còn lại đều bị vứt bỏ. Đây là chuyện thường xảy ra với những xác chết vô thừa nhận. Sau đó chúng tôi đã nhét sỏi cuội vào cỗ áo quan trước khi làm thủ tục mai táng, đồng thời chú ý không để người lạ nhìn vào linh cữu trong giây phút cuối. Chúng tôi khiêng quan tài vào ngôi nhà thờ nhỏ ngay rìa nghĩa trang rồi lại chuyển ra. Đám tang được cử hành vội vã trước lúc trời tối. Một điều khiến sự kiện này bỗng trở nên khác thường, bởi đúng vào thời điểm ấy cả nhà thờ được bao phủ những tấm trướng trang trọng màu đen, do lúc chiều tà người ta vừa chôn cất một nhân vật quan trọng của thủ đô.
Có thể nói bác Nebuchadnezzar được nhét chung vào đó từ hành vi bất cẩn của những nhân viên quản trang, do họ cứ một mực cho rằng lễ Phục sinh đã gần kề nên người đàn ông này hoặc phải được chôn ngay hôm ấy, hoặc là không bao giờ nữa. Một cơn dông ập đến. Chúng tôi vội vã khiêng áo quan vào nhà thờ dưới cơn mưa lớn, ai cũng lo rằng đáy áo quan có thể bục ra khiến những viên sỏi văng tung tóe khắp sàn nhà giữa buổi lễ trang trọng. Rất may trong thời gian cử hành nghi thức truyền thống dành cho người quá cố, trừ viên mục sư kiêm chủ sự thuộc nhà thờ ra chỉ có duy nhất một người phụ nữ già nua ngồi tít tận hàng ghế cuối.
Chúng tôi cố tự trấn an rằng bà ta lọt vô đây là nhằm trú mưa mà thôi, chứ hoàn toàn không liên quan gì tới người sắp được chôn cất cả. Nhưng khi chúng tôi khiêng cỗ quan tài nặng trịch ra ngoài, rồi khi cỗ xe tang rục rịch chuyển bánh, người đàn bà bí ẩn trùm tấm khăn mỏ quạ màu đen vẫn cứ lẽo đẽo theo sau. Chúng tôi liền nâng cao cảnh giác, đề phòng mọi việc hòng ngăn cản chuyện người phụ nữ cao niên có thể gây sự cố ngoài nghĩa địa. Chúng tôi chưa thể thở phào nhẹ nhõm chừng nào huyệt mộ còn chưa lấp kín. Một lúc sau, hai cộng sự đi cùng do quá kiệt sức đã tạt vào bụi cây ven đường, để mặc mình tôi đeo bám buổi hạ huyệt suốt quãng đường còn lại.
Chúng tôi cùng lê bước sau chiếc xe tang… Khi huyệt mộ được lấp đất và vị mục sư đã ra về, người đàn bà bí ẩn ấy vẫn đứng chôn chân tại đó dưới cơn mưa tầm tã, mắt nhìn không chớp vào đống đất tươi rói… Tôi nấn ná ngoài cổng nghĩa trang hồi lâu vẫn chưa thấy bóng dáng bà ta, nên đành quay lại huyệt mộ bác Nebuchadnezzar kiểm tra thêm lần nữa. – Bà còn đợi gì nữa – Tôi đánh tiếng từ xa – Bà có quen biết gì với người đàn ông này không? Người đối diện nhìn tôi vẻ hoảng hốt rồi cố cất tiếng trả lời. Nét mặt bà co rúm lại do đau buồn, khóe miệng trễ xuống kèm đôi môi run run.
- Xem thêm: Sau cột đèn đường, có ánh mắt…
Tôi chợt nhận ra rằng bà chẳng còn lấy một chiếc răng. Đôi mắt già nua đỏ ngầu của bà giàn giụa nước mắt. Trước đây tôi từng nghe miêu tả đâu đó rằng thật đáng sợ khi phải chứng kiến cảnh người già khóc. – Xin bà đừng có khóc nữa, hỡi người phụ nữ tốt bụng – Tôi lên giọng van nài – Dù gì thì ông ấy cũng đã lên thiên đàng. – Vâng – Bà già đáp đồng thời lấy vạt khăn lau khô nước mắt. – Bà phải về nhà thôi kẻo cảm lạnh đấy – Tôi lựa lời khuyên và quả thực không muốn người phụ nữ xa lạ này nấn ná ở đây lâu thêm nữa. Chúng tôi lặng lẽ đi bộ sóng đôi bên nhau hướng ra cổng nghĩa địa. – Xin lỗi, bà từ đâu đến? – Tôi hỏi nhằm phá tan bầu không khí quá ư tĩnh mịch lúc chập choạng tối. – Tôi vừa chân ướt chân ráo dưới miền Tây lên khi hay tin… – Từ Olafsvik phải không? – Tôi bán tin bán nghi hỏi. – Đúng vậy! – Chắc bà có biết ông ta? – Vâng, chúng tôi cùng tuổi nhau. Sau đó tôi đi lấy chồng vì không chờ nổi ông ấy… – Xin mạn phép được hỏi, thế tên bà là gì? – Lily. – Chồng bà còn sống không? – Không, ông ấy mất lâu rồi. – Trên đời thật có nhiều chuyện lạ – Tôi chợt tư lự một mình – Bác Nebuchadnezzar vẫn luôn cô đơn… Người phụ nữ luống tuổi lại lê bước câm lặng bên tôi qua những dãy huyệt mộ, khó có thể trông đợi bà cất thêm một lời nào nữa.
Trước khi chia tay người đàn bà ngoài cổng nghĩa trang, tôi quyết định bỏ nón ra vẻ ngưỡng mộ bất chấp cơn mưa nặng hạt. – Xin tạm biệt bà – Tôi nói. Người đối diện khác giới chìa một bàn tay nhăn nheo ốm nhách ra và nhìn thẳng vào tôi, kẻ chứng kiến duy nhất nỗi đau khổ suốt cuộc đời bà. – Bản thân tôi cũng luôn luôn đơn côi… Và như không kiềm chế được, người đàn bà bí ẩn lại kéo vạt khăn xuống lau mắt rồi quay gót. Đó cũng là hồi kết của câu chuyện về bác Nebuchadnezzar, nhân vật từng qua đêm ngoài nghĩa địa khi mới đến thành phố này
– Dịch