Có những khoảnh khắc không thể đo bằng đồng hồ, chỉ có thể chạm bằng trái tim. Một giờ cùng phi hành đoàn trên bầu trời Sơn Tây, Ba Vì hướng về Ba Đình, Hà Nội – ngắn ngủi nhưng đủ để neo lại trong tôi ký ức khó quên. Đó không chỉ là một chuyến bay, mà là một hành trình đi qua cả ký ức, thiên nhiên và những câu hỏi về sự đổi thay của đất nước.

Sơn Tây nằm ở phía Tây Hà Nội. Nơi ấy vốn gắn với lịch sử, với những bức tường Thành Cổ trầm mặc, những ngôi làng xanh mướt, những cánh đồng chuối trải dài. Người ta vẫn quảng bá đó là vùng đất của du lịch văn hóa, của Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, của những lễ hội rộn ràng. Nhưng đôi khi, tôi thấy thương cho cách ta biến những không gian ấy thành sân khấu biểu diễn, nhiều hơn là chốn để lắng nghe ký ức của từng dân tộc. Giữa sự rộn ràng ấy, đâu còn những tiếng nói thật thà của người làng, đâu còn sự lặng lẽ mà một nền văn hóa cần để thấm sâu?


Cánh quạt trực thăng dần xoáy vào không trung, âm thanh động cơ vừa rền vang vừa như một lời gọi mùa thu. Tôi nhìn sang đồng nghiệp, ánh mắt họ háo hức như những đứa trẻ sắp vào cuộc phiêu lưu. Các phi công – bình tĩnh, nhiệt huyết – khiến tôi thấy yên tâm. Lúc ấy, tôi không chỉ là ký giả, mà là kẻ đồng hành trong một chuyến đi khác thường. Chúng tôi không chỉ bay lên cao, mà còn bay ngược về những lớp ký ức – nơi bầu trời vẫn xanh như thuở nào.




Từ trên cao, Sơn Tây như bức tranh thủy mặc. Làng quê ẩn hiện trong màu xanh nguyên sơ, giữa đó là những mái ngói nâu cũ kỹ, những ngôi nhà mới cắm mình vào cánh đồng. Có chút bình yên, có chút xao xác. Tôi nhớ về những chiều Hà Nội, tiếng chuông nhà thờ vang lên giữa phố cổ, khói bếp từ những gánh hàng rong tỏa ra. Tất cả giờ thu gọn trong tầm mắt – vừa thân quen, vừa xa lạ. Thật lòng mà nói, khi nhìn từ trên cao, ta mới nhận ra: thành phố nào cũng có hai gương mặt – một gương mặt lộng lẫy cho khách ghé qua, và một gương mặt thầm lặng cho những người ở lại.

Khi bay qua Ba Vì, mây trắng quấn quýt những đỉnh núi. Rừng nguyên sinh trải dài, thỉnh thoảng lấp lánh hồ nước nhỏ dưới nắng. Một đồng nghiệp thốt: “Đẹp quá!”. Tôi thấy lòng mình cũng reo lên. Nhưng rồi tự hỏi: liệu rừng ấy còn bền vững đến bao giờ, khi ngoài kia vẫn có những cánh rừng mất đi vì những dự án mang tên “phát triển”? Chúng ta đang đổi lấy sự tiện nghi bằng điều gì? Có những câu hỏi cứ vang mãi trong đầu, và tôi biết mình sẽ còn phải tự trả lời nhiều lần nữa.


Trực thăng hướng về Hà Nội. Hồ Tây lấp lánh như gương, phố cổ đỏ ngói thấp thoáng bên những tòa nhà mới. Một thành phố vừa hiện đại, vừa lưu giữ quá khứ. Tôi thấy tim mình chùng xuống – không vì tiếc nuối, mà vì biết ơn. Biết ơn vì được sống, được bay, được chia sẻ khoảnh khắc này cùng đồng nghiệp và những phi công của Trung đoàn không quân. Một giờ không dài, nhưng đủ để khắc ghi. Giữa guồng quay của đời sống hiện đại, đôi khi ta chỉ cần một giờ như thế để chạm vào sự bình yên.


Cảm ơn những gương mặt đã ở đó: Tango Nguyễn, Nam Trần, Vũ Lâm, Vũ Minh Hiền… Cảm ơn phi hành đoàn 916, 917 đã cho chúng tôi chạm vào bầu trời – bằng kỹ thuật bay, bằng cả tình yêu dành cho mây gió. Tôi chợt hiểu, đôi khi, điều khiến ta nhớ không phải là quãng đường đã bay, mà là cảm giác trái tim cùng chung một nhịp đập.


Có người nói, đi nhiều để thấy thế giới rộng lớn. Nhưng tôi lại nghĩ, đi nhiều để thấy quê hương mình cũng rộng lớn không kém. Từ Sơn Tây, Ba Vì cho đến phố phường Hà Nội, mỗi nơi đều ẩn giấu một tầng ký ức. Vấn đề là ta có đủ kiên nhẫn để lắng nghe, hay chỉ vội vàng nhìn qua rồi bỏ lại phía sau.








Một giờ bay – không chỉ trên bầu trời, mà còn trong lòng mình. Một giờ ấy giúp tôi tin rằng, vẫn còn những khoảng trời nguyên sơ để trở về, vẫn còn những con người đủ tâm huyết để giữ lại mảng xanh cho thế hệ sau. Và trên hết, vẫn còn niềm tin rằng giữa bao thay đổi, có những điều không bao giờ nên mất đi.
Thu Hà Nội, 2025