Ngày xưa, làm lịch, niêm ấn… là việc “đại sự” mà nội cung phải lo toan; ngoài ra, các việc linh tinh như đóng, mở cửa thành đều phải có chỉ dụ của vua tất tần tật. Vậy mà có vị chỉ được vua lì xì một quan tiền! Thế mới biết Tết nhà quan đâu phải ai cũng sướng?
Có tiền cũng không mua được lịch
Theo Phan Huy Chú (1782-1840) – Biên Tu trường Quốc Tử Giám vào năm Tân Tỵ 1821 dưới triều vua Minh Mạng, ghi chép trong “Lịch triều hiến chương loại chí”: Hàng năm, các quan ở Khâm Thiên Giám tính trước lịch cho năm sau, đến tháng 6 viết ra hai bản dự thảo, một bản dâng lên vua và xin tiền in lịch. Vua xem xong, giao cho Trung Thư Giám viết lại để bên Tri Giám coi việc khắc mộc bản; khắc xong rồi đối chiếu rà soát lại trước khi đem in. Trong tháng Chạp chọn ngày tốt dâng lịch lên vua chuẩn y mới làm lễ Tiến lịch.
Sáng ngày ấy, các quan mặc phẩm phục, vào triều làm lễ. Từ sớm, Nghi Chế Ty (cơ quan phụ trách nghi lễ) và các Tự ban đặt cái án dâng lịch ở giữa ngự đạo trước sân rồng. Bốn viên Thông tán, hai viên đứng ở phía Ðông và phía Tây, hai viên đứng ở bên tả và bên hữu cửa Đoan môn. Sau ba hồi trống, Tự ban dẫn viên quan Tiến lịch vào phía Đông sân chầu. Vua ngự trên ngai vàng. Tự quan đến giữa ngự đạo, rồi xướng: “Cúc cung – bái – hưng (bốn lần) – bình thân”. Lễ quan xướng: “Tiến hoàng lịch”. Tự ban dẫn quan Tiến lịch đến trước án, xướng: “Quỳ, tiến lịch”, quan Tiến lịch để cuốn lịch lên án. Quan Truyền chế đến giữa ngự đạo quỳ tâu: “Tấu truyền chế” rồi lạy, vẫn quỳ. Quan Tư Lễ đem tờ chế trao cho quan Truyền chế đỡ lấy lui ra, đứng phía Đông, xướng: “Hữu chế”. Các quan quỳ xuống, quan Truyền chế lui về chỗ cũ, xướng: “Phủ phục – hưng – bái (bốn lần), bình thân” và xướng: “Bách quan phân ban thị lập”. Tất cả các quan ra đứng hai bên. Quan Nghi Chế Ty đến giữa ngự đạo quỳ: “Tấu lễ tất”; nhà vua về cung. Quan Lễ khoa đem lịch ban cho các quan; các quan quỳ xuống, cầm cuốn lịch đưa ngang trán, gọi là nhận “Quan lịch”; cuốn lịch dành cho vua là “Ngự lịch”; ngoài ra còn có các lịch đặc biệt để thờ ở các miếu Tiên đế gọi là “Long Phụng lịch”.
Theo Lê Quý Đôn (1726-1784), thời nhà Nguyễn, lễ “Ban sóc” (ban lịch) được coi trọng; vì lịch liên quan đến việc cày cấy, sinh tồn của dân. Từ đầu thế kỷ XIV, nước ta đã phái người sang Nguyên triều khảo cứu Thiên văn học và phép làm lịch. Thời Nguyễn, năm Canh Thìn 1820, Bộ Lễ tâu về việc ban lịch Hiệp Kỷ: “Ban bảo Chính Sóc là việc chính trị lớn của vương giả kính Trời chăm dân. Xin lấy ngày mùng 1 tháng Chạp đặt Ðại triều ở điện Thái Hòa để truyền chỉ ban lịch theo phép cũ”. Năm Minh Mạng thứ 13 (Quý Tỵ1833), vua Minh Mạng định lệ như sau: “Lễ Chính Sóc là một lễ lớn để tỏ trong nước dùng cùng một thứ chữ. Nguyên trước lịch do kinh ban ra, in ở địa phương, chuyển cấp cho dân; nay các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh do kinh cấp phát; từ Ninh Bình ra Bắc cứ tháng 5 mỗi năm Khâm Thiên Giám đưa mẫu lịch cho Hà Nội in và cấp phát. Ðến tháng 9, Khâm Thiên Giám làm tờ bìa mặt quyển lịch, bìa vàng có chữ Hiệp Kỷ lịch, đến ngày mùng Một tháng Chạp các tỉnh làm lễ Chính Sóc và cấp phát”.
Năm Minh Mạng thứ 20 (Canh Tý 1840), thay đổi lệ cũ ngày mùng 1 tháng Chạp đặt nghi lễ Ðại triều ở điện Thái Hòa, để ban lịch Hiệp Kỷ cho các quan; nay thay đổi làm trước một ngày, ty chức trách đặt một cái án vàng trước Ngọ Môn; giữa đặt một cái bàn và ở phía Nam một cái án, đều che lọng vàng. Hai bên sân Ngọ Môn là chỗ đứng lạy của các hoàng thân, các quan từ tam phẩm trở lên; các quan tứ phẩm trở xuống đứng lạy ở cầu Kim Thủy (?). Sáng ấy, các quan đều mặc triều phục. Quan Giám Chế của Khâm Thiên Giám bưng hòm đựng lịch đặt lên long đình. Bộ Lễ xướng: “Hành tiến lịch lễ !” (hành lễ dâng lịch); quan Khâm Thiên Giám bưng hòm đựng lịch đến cạnh viên quản lý quỳ xuống dâng. Lính Vệ Loan khiêng án vàng qua cửa Ngọ Môn đi vào, nhã nhạc, nghi trượng đi trước, qua cầu Trung Đạo đến cửa Ðại Cung; án vàng đi vào cửa giữa đến điện Cần Chánh đặt ở dưới thềm. Quan Khâm Thiên Giám trao hòm lịch cho viên Nội các chuyển cho nội giám đệ (đưa) vào cung. Ngày ấy, các quan đến viện Tả Đãi nhận lịch. Riêng phủ Thừa Thiên họp 6 huyện đến lĩnh lịch về cấp phát cho các làng xã để dân chúng xem chung! Cuốn lịch do các thầy Chánh tổng, Lý trưởng giữ; chi tiết này cho thấy thời Nguyễn, có tiền cũng không mua được… lịch; còn tội sao chép trộm thì bị xử trảm?
Thảnh thơi ăn Tết, quan “khóa ấn”
Năm Đinh Mão 1807, vua Gia Long định lệ hàng năm đến ngày 25 tháng Chạp âm lịch thì khóa ấn, mùng 7 tháng Giêng mới khai ấn. Năm Đinh Hợi 1827, vua Minh Mạng ban dụ “Hết năm có lệ phong ấn để các nha dành ít ngày nghỉ ngơi, nhàn hạ trong khi cả năm phải siêng năng, chăm chỉ làm việc. Ðấng vương giả theo phép Trời làm việc mạnh mẽ, tự cường, không nghỉ ngơi còn sợ chưa hợp ý Trời, chưa thỏa mãn nguyện vọng của nhân dân nên trẫm không muốn một ngày nhàn rỗi. Từ nay ấn tín quốc gia, hành dụng vẫn theo thường lệ. Còn các nha môn trong ngoài, cuối năm phong ấn, đầu Giêng, khai Xuân, khai ấn mà làm”.
Trước khi khai ấn phải rửa ấn, gọi là lễ Phất thức. Ấn chỉ được ngâm rượu cho các chất bẩn tan ra, không được lấy tăm khều cho nhanh, vì làm thế cả năm sẽ có nhiều trọng án xảy ra. Trình tự lễ Phất thức cũng long trọng. Nội Các chọn một trong mười ngày cuối tháng Chạp, làm lễ phải trình lên vua chuẩn y. Các hoàng thân, các quan trong Viện Cơ Mật, trong Nội Các đều đến dự lễ. Sáng ngày Phất thức, Bộ Lễ đặt 6 cái tủ lớn ở hai bên cửa điện Cần Chánh, trong tủ đựng các hộp ấn được mở ra trước mặt nhà vua. Các ấn triện vàng, ngọc, pha lê v.v. được rửa bằng nước hương thủy (rượu có ngâm các thứ hoa) rồi lau khô bằng nhiễu điều. Sau khi rửa sạch, các ấn triện được cất trong tủ khóa. Năm Canh Dần 1830, vua Minh Mạng cho phép sau ngày khóa ấn, nếu gặp những việc tối cần, Lục bộ và Nội Các tâu xin vua cho dùng tạm ấn vàng (?).
Hớn hở khi được vua “lì xì”
Năm Quý Sửu 1853, vua Tự Đức ban dụ cho mở cửa cung cấm, hoàng thành, kinh thành 3 đêm, từ mùng 1 Tết đến hết mùng 3; tăng thêm 1 đêm so với trước đây. Việc ban thưởng tổ chức vào ngày mùng Một. Trước hết, vua đến cung Từ Thọ làm lễ Khánh Hạ rồi dâng lên Hoàng Thái Hậu mười lạng vàng. Xong rồi, vua ngự ở điện Thái Hòa cho bầy tôi chầu mừng. Vua sẽ “lì xì” theo thứ bậc như sau: Các hoàng tử mỗi người 20 lạng bạc; quan văn võ chánh nhất phẩm người 12 lạng bạc; quan Tùng nhất phẩm người 10 lạng bạc; quan Chánh nhị phẩm người 8 lạng bạc; Chánh ngũ phẩm người 2 lạng bạc; các quan Hành tẩu, Thị nội, Chánh đội trưởng, Suất đội v.v. mỗi người được 1 lạng; tuy không nhiều, song được vua ban “lộc” là vinh dự cho cả gia tộc, họ hàng…