Một sáng đầu hè, tôi rời phố Hội, bỏ lại những con đường nượp khách du lịch, đạp xe dọc triền cỏ ven sông Thu Bồn. Gió sông lùa qua mái tóc, mang theo mùi ngai ngái của đất nung lẫn chút thơm dịu của hương hoa dại bên đường. Khi rặng tre nghiêng mình nhường chỗ cho những mái ngói phủ rêu, làng gốm Thanh Hà hiện ra – trầm mặc như một tấm ảnh cũ ép trong ký ức.
Ngay cổng làng, dòng chữ “Làng gốm Thanh Hà – điểm du lịch làng nghề” khiến tôi chững lại. Một bên là hình ảnh được kể về những chiếc lu, chum, vại từng là vật dụng gắn bó với đời sống người Quảng. Một bên là thực tại, những con tò he, chuông gió, tượng con giống đủ màu sắc, sắp đặt bài bản để phục vụ du khách. Gốm vẫn còn, nhưng hồn cốt dường như đã hoà lẫn vào nhịp sống du lịch đại trà.
Trong một góc sân, bác nghệ nhân lớn tuổi đang tỉ mẩn vuốt đất. “Giờ làm để giữ nghề thôi. Khách đến chụp ảnh, nặn đất chơi rồi mua vài món nhỏ mang về làm quà là mừng rồi cô ạ,” bác nói, giọng khản đục như mảnh gốm rạn – chứa cả tiếc nuối lẫn hy vọng.
Tôi tự hỏi: Phải chăng Thanh Hà đang cố níu giữ một ký ức đẹp, dù không còn nguyên vẹn? Hay làng nghề đang đứng giữa ngã ba của phục dựng và phai nhạt rồi hoà tan?
Từ đất sét đến thương cảng – một thời vang bóng
Từ thế kỷ XVI, làng gốm Thanh Hà là điểm sáng trong mạng lưới giao thương ven sông Thu Bồn. Gốm theo thuyền xuôi ngược đến các cảng thị miền Trung, vào tận kinh thành Huế. Cùng với làng mộc Kim Bồng, rau Trà Quế, chiếu Cẩm Kim… Thanh Hà là một phần hồn cốt của Hội An – một thương cảng từng nổi tiếng phồn thịnh và duyên dáng nhất nhì khu vực Đông Á.
Khác với gốm Bát Tràng lấp lánh men, Phước Tích trầm lắng với đất sét xám đen, gốm Thanh Hà nổi bật bởi sắc nâu và lối làm hoàn toàn bằng thủ công. Gốm không men, được nung bằng củi, và làm ra bằng sự cảm nhận nhạy bén của đôi tay.
Gốm Thanh Hà không cầu kỳ, không bóng bẩy để gây ấn tượng, nó mộc mạc, trầm bền cùng đời sống người Quảng như một thứ “tính cảch” ẩn mình.
Khi ngọn lửa lụi dần … rồi le lói trở lại
Nhưng rồi đến cuối thế kỷ XX, như nhiều làng nghề khác, Thanh Hà cũng chịu những cơn sóng dữ của thời đại. Gốm công nghiệp lên ngôi, đồ nhựa, sứ giá rẻ tràn về. Người trẻ rời làng, nghệ nhân không thể sống bằng nghề, các lò nung nguội lành, bàn xoay phủ bụi. Có lúc, cả làng chỉ còn 5 hộ giữ nghề, đa phần là người già.
Đầu thế kỷ XXI, với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, cùng lòng kiên trì của vài nghệ nhân còn nặng lòng, làng bắt đầu “chắt đất nhóm lửa” trở lại. Đầu thập niên 2000, Thanh Hà bắt đầu được định hướng như một điểm đến du lịch làng nghề. Những tour tham quan làng, trải nghiệm nặn gốm, tô tượng ra đời. Bảo tàng gốm và Công viên Đất nung – một không gian trưng bày gốm nghệ thuật độc đáo đi vào hoạt động như một điểm nhấn thu hút. Đến năm 2019, nghề gốm được công nhận là Di sản Văn hoá phi vật thể cấp quốc gia – một tín hiệu vui cho hy vọng mới.

Tuy nhiên, sống nhờ du lịch khác hoàn toàn sống bằng nghề. Theo khảo sát năm 2023 của ĐH Văn hoá TP. HCM, khoảng 70% du khách rời làng sau chưa đầy 2 giờ, 85% chỉ mua sản phẩm lưu niệm dưới 100.000 đồng, và chưa đến 10% hiểu về lịch sử và văn hoá làng gốm. Những con số này không chỉ là thống kê, mà phản ảnh một thực tế buồn: Thanh Hà đang tồn tại nhiều hơn là sống. Du khách ghé qua, quay chụp, mua vài món, nhưng ít ai ở lại để hiểu vì sao đất nơi đây mang màu nâu, vì sao lò vẫn đốt củi, và vì sao người làng cố giữ nghề.
Hiện chỉ còn khoảng 32 hộ làm còn nghề trên tổng số 320 hộ dân. Ngọn lửa lò vẫn cháy, nhưng dường như đã biến sắc ít nhiều – từ lửa nghề sang… lửa dịch vụ.
Bàn xoay giữa âm thanh cũ – mới, đâu là tương lai?
Giờ đây, bước chân vào làng gốm, bạn sẽ nghe tiếng xe điện chở khách, tiếng máy ảnh lách tách, tiếng trẻ em gọi nhau tô tượng. Nhưng đâu đó, vẫn còn tiếng bàn xoay rít khẽ, tiếng củi khô cháy rôm rốp, vả cả tiếng thở theo nhịp vui buồn của nghệ nhân khi nhồi đất, xoay bàn.
Không gian ấy, giao thoa giữa cũ và mới, giữa truyền thống và thương mại – đang giằng co. Vậy đâu là ngọn gió có thể nhóm lại lửa bền vững cho Thanh Hà?
Một số hướng mở, để gốm không chỉ là ký ức của một làng xưa
1. Xây dựng mô hình nghệ sĩ lưu trú (Artist-in-Residence)
Mô hình artist-in-residence đã biến những ngôi làng nhỏ ở Nhật Bản, Hàn Quốc thành “thủ phủ nghệ thuật nông thôn.” Như Naoshima (Nhật Bản), từ một đảo nhỏ, nhờ mời nghệ sĩ cư trú, tổ chức lễ hội nghệ thuật, cộng đồng đã “hồi sinh” và trở thành điểm đến quốc tế gây thương nhớ. Hay ở ngay Việt Nam mình, mô hình Bát Tràng Heritage (Hà Nội), không chỉ giữ nghề, mà còn đưa gốm vào không gian kiến trúc, bảo tàng tương tác, trường học trải nghiệm, biến cả làng thành một hệ sinh thái văn hoá – giáo dục – du lịch.

Thanh Hà hoàn toàn có thể là một chốn lưu trú của giới sáng tạo, nơi nghệ sĩ trong và ngoài nước có thể đến sống chậm, sáng tác, kết nối với đất và cộng đồng. Họ không chỉ làm nghệ thuật, mà còn góp phần kể lại câu chuyện của làng bằng ngôn ngữ sáng tạo đương đại.
2. Gắn gốm vào đời sống Hội An
Thay vì đóng khung gốm như sản phẩm lưu niệm, hãy để nó sống cùng Hội An: trở thành chén cơm trong quán cơm quê, trong nhà hàng; đèn ngủ trong homestay, khách sạn; gạch lát trong nhà cổ, chậu hoa nơi vườn phố. Khi đó, gốm sẽ dần hiện diện trở lại trong đời sống và tinh thần của Hội An.
3. Trải nghiệm sâu thay vì tham quan vội
Thay vì tham quan một hai tiếng, có thể tạo ra một chương trình 2-3 ngày sống tại làng, học nặn gốm, ăn cơm quê, nghe chuyện đời – nghề – người, kết nối cùng làng mộc Kim Bồng hay vườn rau Trà Quế,… sẽ mang lại trải nghiệm sâu sắc hơn nhiều so với những khoảnh khắc “check-in” ngắn ngủi thông thường.
4. Thương hiệu hoá – Sáng tạo hoá – Số hoá
Xây dựng thương hiệu gốm Thanh Hà rõ nét, cần một chiến lược dài hơi để phát riển thêm dòng gốm mới: thiết kế tối giản, bền vững, mang bản sắc địa phương,… Những sản phẩm có thể kết hợp cùng kiến trúc nội thất, quà tặng văn hoá, hoặc được giới thiệu tại các hội chợ thiết kế. Đồng thời, sử dụng nền tảng số để kể chuyện làng nghề đến thế hệ trẻ.
Lửa sẽ không tắt, nếu gió đến từ tình yêu đất
Chiều muộn, bác nghệ nhân rửa tay sau mẻ gốm cuối trong ngày. Tôi hỏi: “Bác còn nung gốm thật không hay chỉ cho khách xem?” – bác cười, tay chất củi vào lò: “Gốm vẫn nặn, lửa vẫn cháy chứ. Chừng nào còn người còn yêu đất yêu nghề.”
Lửa không chỉ cháy bằng củi. Lửa còn cháy bằng ký ức, bằng niềm tin, và tình yêu lặng lẽ cho mảnh đất hơn 500 tuổi. Ngọn lửa ấy, có thể trầm lắng trong những ngày vắng khách. Nhưng chưa bao giờ tắt.
Khi tôi rời làng, bóng chiều nghiêng xuống bãi sông. Trong sâu thẳm luỹ tre làng, tiếng lửa lò vẫn âm ỉ cháy, khói toả nhẹ rồi tan vào màu hoàng hôn. Có thể, những chiếc gốm mộc mạc không còn giữ vai trò vật dụng như thuở trước. Nhưng nếu người biết quý đất, giữ nghề, thì lửa vẫn chờ làn gió lành. Từ trái tim của người trẻ, của khách phương xa, của nghệ sĩ yêu thủ công, hay chính con cháu làng Thanh Hà… Để cháy lên lần nữa, đẹp hơn, bền hơn.
Xem thêm: Một ngày sống chậm ở Tuy Hòa