Dòng thời sự

Việc Thủ tướng quyết định kết thúc thí điểm hình thành Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam (VNIC) và Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam (HUD) sau hơn hai năm hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh tế được xem là bước đầu thanh lọc các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Một khu biệt thự do HUD đầu tư ở khu đô thị mới Việt Hưng, Hà Nội

Cùng với việc kết thúc thí điểm hai tập đoàn, Thủ tướng giao Bộ trưởng Bộ Xây dựng quyết định thành lập Tổng công ty Sông Đà trên cơ sở tổ chức lại Công ty mẹ – Tập đoàn Sông Đà và các đơn vị thành viên của Tổng công ty Sông Đà trước đây. Đồng thời thành lập Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị trên cơ sở tổ chức lại Công ty mẹ – Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị và các đơn vị thành viên của Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị trước đây.

Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Phạm Viết Muôn cho biết, khác với các tập đoàn khác, hai tập đoàn này hình thành trên cơ sở tổ chức lại 11 tổng công ty của Bộ Xây dựng. Tập đoàn Công nghiệp xây dựng lấy Tổng công ty Sông Đà làm nòng cốt, Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị lấy Tổng công ty Phát triển nhà và Đô thị làm nòng cốt. Tuy nhiên, hai tập đoàn xây dựng nói trên đã không đạt được mục tiêu đề ra khi thành lập là hình thành các tập đoàn xây dựng lớn, trở thành tổng thầu, chi phối lĩnh vực bất động sản, các tổng công ty chọn làm nòng cốt không thực hiện tốt vai trò được giao. Qua thực tế quản lý, phát triển và hiệu quả sản xuất kinh doanh đã cho thấy không nên tiếp tục duy trì hai tập đoàn này.

Liên quan đến quyền lợi khách hàng và người lao động sau khi kết thúc thí điểm hai tập đoàn, ông Phạm Viết Muôn cho hay, mọi hợp đồng mà khách hàng đã ký với Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam sẽ được Tổng công ty Sông Đà kế thừa, các hợp đồng mà khách hàng đã ký với Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam sẽ được Tổng công ty Phát triển nhà và đô thị Việt Nam kế thừa. Các đơn vị thành viên cũng tiếp tục kế thừa các quyền và nghĩa vụ đã cam kết.

 

Toàn cảnh khu công nghiệp Dung Quất

Ảnh TTXVN

Khu kinh tế Dung Quất, có diện tích khoảng 10.300ha thuộc tỉnh Quảng Ngãi, sẽ được mở rộng thêm với tổng diện tích khoảng 45.332ha bao gồm phần diện tích khu kinh tế hiện hữu là 10.300ha, phần diện tích mở rộng khoảng 24.280ha và khoảng 10.752ha diện tích mặt biển.

Phạm vi ranh giới Khu kinh tế Dung Quất vẫn được xác định bao gồm các xã Bình Chánh, Bình Thạnh, Bình Đông, Bình Thuận, Bình Trị, Bình Hải và một phần diện tích đất của các xã Bình Phước, Bình Hòa và Bình Phú của huyện Bình Sơn.

Khu kinh tế Dung Quất là khu kinh tế tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực, bao gồm công nghiệp – thương mại – dịch vụ – du lịch – đô thị và nông lâm ngư nghiệp. Trong đó trọng tâm là công nghiệp lọc hóa dầu, công nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng với các ngành chủ đạo là luyện cán thép, đóng tàu biển và các ngành công nghiệp khác gắn liền với việc khai thác cảng nước sâu.

Đồng thời, đây cũng là một thành phố công nghiệp mở, trung tâm lọc hóa dầu quốc gia, trung tâm đô thị công nghiệp dịch vụ cảng của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với các đô thị Vạn Tường, Dốc Sỏi, Châu Ổ – Bình Long…

Khu kinh tế Dung Quất nằm ở tỉnh Quảng Ngãi, thuộc khu vực duyên hải miền Trung, cách Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh khoảng 860km, tiếp giáp Quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt và là điểm đầu của một trong những tuyến đường xuyên Á kết nối với Lào, Campuchia và Thái Lan.

Theo số liệu từ Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất, hơn 140 dự án đã được cấp phép hoặc chấp thuận đầu tư tại khu kinh tế này, với tổng vốn đăng ký khoảng 10,3 tỉ USD, vốn thực hiện hơn 4 tỉ USD. Một số nhà máy quy mô lớn đã được hoàn thành và đang hoạt động như Nhà máy lọc dầu Dung Quất với công suất 6,5 triệu tấn dầu thô/năm và sẽ được mở rộng lên công suất 10 triệu tấn dầu thô/năm; nhà máy công nghiệp nặng Doosan-Vina; nhà máy Polypropylene…

 

Nhóm lao động nữ tay nghề cao chuẩn bị làm thủ tục xuất cảnh đi Nhật

Hiện các thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam đang lâm vào tình trạng đóng băng, nhất là các thị trường cho thu nhập cao như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Hậu quả là hàng loạt doanh nghiệp xuất khẩu lao động rơi vào tình cảnh sống dở chết dở, thậm chí không có tiền trả lương nhân viên.

Mới đây Bộ trưởng Lao động Hàn Quốc đã chính thức có văn bản gửi Bộ trưởng Lao động – Thương binh và Xã hội nước ta thông báo việc dừng tiếp nhận lao động Việt Nam. Đây là quyết định đã được phía Hàn Quốc cảnh báo từ lâu, do tình trạng lao động bất hợp pháp của Việt Nam tại Hàn Quốc gia tăng, trong khi phía Việt Nam không có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.

Mục tiêu mà Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đặt ra từ đầu năm là sẽ đưa 90.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Tuy nhiên, đến thời điểm này, số liệu chín tháng đầu năm vẫn chưa được Cục quản lý lao động ngoài nước công bố mà chỉ có số liệu sáu tháng đầu năm với 40.115 lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài, chỉ đạt 44,6% so với kế hoạch.

Trong khi đó, thị trường Đài Loan và Nhật Bản tiếp tục tuột dốc khi chỉ tiếp nhận được 14.005 lao động và 3.982 lao động. Đây là hai thị trường truyền thống của Việt Nam nhưng chúng ta không có biện pháp hữu hiệu để gìn giữ hay phát triển.

Với các thị trường mới, dù các doanh nghiệp tích cực mở rộng sang một số quốc gia như Australia, New Zealand, Canada và một số nước Bắc Âu như Phần Lan, Thụy Điển nhưng số lượng lao động đưa đi được cũng rất ít.

Điều lo lắng nhất hiện nay là hàng loạt doanh nghiệp đã trả giấy phép xuất khẩu lao động cho Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

Trong khi các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống cạn nguồn, người lao động bắt đầu đổ xô vào các thị trường tự do đầy rủi ro. Cụ thể là tại Angola, theo thống kê chưa đầy đủ của Cục Quản lý lao động Ngoài nước (Bộ LĐ-TB-XH) hiện có khoảng 10.000 lao động Việt Nam đang sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, thực tế con số này lên đến khoảng 40.000 người, khoảng 90% trong số này làm việc trong lĩnh vực xây dựng, còn lại làm điện tử và nông nghiệp. Mức lương mà doanh nghiệp sở tại trả cho lao động trung bình từ 800 đến 1.000 USD/tháng.

Do Angola và Việt Nam chưa ký kết thỏa thuận hợp tác lao động nên không có doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong nước trực tiếp khai thác thị trường này. Người lao động chỉ có một lựa chọn duy nhất là đi theo hình thức tự do, chấp nhận nhiều rủi ro và thiệt thòi về tiền lương.

Hiện có khoảng 400.000 lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài.

Gia Minh tổng hợp

Exit mobile version