Những căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng đã có sự dẫn truyền, lan sang mặt bằng lãi suất huy động vốn từ người dân.
Rút bớt thanh khoản, chống đầu cơ tỷ giá
Khác với quý II, thanh khoản hệ thống ngân hàng trong quý III-2018 đã trở nên eo hẹp hơn do tăng trưởng tín dụng đã cao hơn so với tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2). Cụ thể, tính đến ngày 20-9-2018, tín dụng đã tăng 9,52% so với cuối năm 2017 trong khi M2 mới tăng 8,74%.
Theo Công ty Chứng khoán Bảo Việt, diễn biến này khiến cho chênh lệch giữa phần tăng thêm của M2 và phần tăng thêm của tín dụng chỉ còn 96.000 tỉ đồng vào thời điểm cuối tháng 9, thay cho mức 238.000 tỉ đồng vào thời điểm cuối tháng 6. Do tiền trong hệ thống không còn quá dư thừa, thanh khoản hệ thống đã bị ảnh hưởng đáng kể. Biểu hiện rõ rệt nhất là sự tăng cao của lãi suất liên ngân hàng, liên tục duy trì quanh mức 4%/năm cho các kỳ hạn qua đêm, một tuần và hai tuần.
Về cơ bản, có hai nguyên nhân chính khiến Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ động rút bớt thanh khoản ra khỏi hệ thống ngân hàng, khiến M2 tăng trưởng chậm lại trong quý vừa qua. Thứ nhất, NHNN định hướng thực thi chính sách tiền tệ theo hướng chặt chẽ hơn nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát tăng mạnh. Thứ hai, là giảm áp lực lên tỷ giá USD/VND. Khi cung không còn quá dư thừa, VND sẽ lên giá trở lại so với USD. Ngoài ra, lãi suất cho vay liên ngân hàng neo ở mức cao (trên 4%) cũng khiến chi phí vay VND tăng, qua đó giúp giảm bớt hiện tượng đầu cơ USD trong hệ thống ngân hàng.
- Xem thêm: Chuyển động mới của lãi suất huy động
Mặt bằng lãi suất dâng lên
Những căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng đã có sự dẫn truyền, lan sang lãi suất huy động trên thị trường 1 (huy động vốn từ dân cư). Tính đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất huy động đã tăng trên diện rộng (cả ở khối ngân hàng thương mại cổ phần lẫn ngân hàng thương mại gốc quốc doanh) với mức tăng từ 0,1 – 0,4% (tùy từng kỳ hạn). Lãi suất huy động bằng VND hiện phổ biến ở mức 0,6 – 1%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới một tháng; 4,3 – 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn một tháng – dưới sáu tháng; 5,3 – 6,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn sáu tháng – dưới 12 tháng; kỳ hạn trên 12 tháng ở mức 6,5 – 7,8%/năm.
Dự báo mặt bằng lãi suất huy động vẫn có thể tăng thêm trong thời gian tới, tuy nhiên mức tăng sẽ được giới hạn ở mức không quá lớn (dưới 0,5%). Nguyên nhân chủ yếu là do cầu tín dụng cuối năm sẽ thấp hơn sáu tháng đầu năm (room tăng trưởng tín dụng cho năm nay chỉ là 15% trong khi đa phần các ngân hàng đã dùng hết 2/3 hạn mức tăng tín dụng trong sáu tháng đầu năm). Việc tăng lãi suất có thể cũng sẽ tập trung ở các kỳ hạn dài khi các ngân hàng phải cân đối lại nguồn vốn để đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn giảm xuống còn 40% kể từ đầu năm 2019.
Cùng chiều với lãi suất liên ngân hàng và lãi suất huy động, lợi suất trái phiếu chính phủ (TPCP) cũng bật tăng mạnh trong quý III vừa qua. Lợi suất kỳ hạn năm năm hiện ở mức khoảng 4,2%/năm; kỳ hạn 10 năm quanh mức 5%/năm – tức tăng 100-120 điểm cơ bản so với mức đáy. Ở một góc độ khác, trong quý III-2018, Kho bạc Nhà nước (KBNN) đặt mục tiêu phát hành tổng cộng 75.000 tỉ đồng TPCP nhưng tính đến ngày 26-9 mới chỉ phát hành được 47.000 tỉ đồng, tương đương 63% kế hoạch quý.
Lũy kế từ đầu năm đến hết ngày 26-9, KBNN đã phát hành tổng cộng 118.416 tỉ đồng, tương đương 59% kế hoạch năm. Trong khi đó, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong chín tháng đầu năm 2018 đạt 214.500 tỉ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ nhưng mới bằng 63,2% kế hoạch năm. Theo thông lệ, giải ngân vốn đầu tư công sẽ có xu hướng tăng tốc trong thời điểm cuối năm. Do đó, tốc độ cải thiện trong giải ngân vốn đầu tư công sẽ có ảnh hưởng lớn tới tình hình phát hành TPCP của KBNN trong thời gian tới. Nếu đầu tư công tăng tốc mạnh, KBNN sẽ chịu sức ép phát hành TPCP nhiều hơn, qua đó lợi suất có thể tăng nhẹ, đặc biệt khi KBNN tính đến nay mới chỉ hoàn thành 59% kế hoạch phát hành cho cả năm dù đã qua chín tháng.
Ngoài ra, khi so sánh tương quan với các nước trong khu vực thì lợi suất TPCP kỳ hạn 10 năm của VN hiện đang thấp hơn không nhiều so với Indonesia, Philippines trong khi cao hơn so với Thái Lan và Malaysia. Có những thời điểm vào đầu năm 2018, lợi suất trái phiếu 10 năm của VN còn thấp hơn lợi suất trái phiếu 10 năm của Malaysia. Gần đây, lợi suất trái phiếu của VN đã tăng trở lại và diễn biến trên được xem là hợp lý nếu xét đến trình độ phát triển kinh tế cũng như bối cảnh lạm phát, rủi ro tỷ giá của các nước. Lạm phát YoY tính đến thời điểm cuối tháng 9 của VN (3,98%) cao hơn so với các nước trên nhưng mức mất giá của VND (-2,6%) đều thấp hơn hẳn so với đồng rupee của Indonesia (-11%) và đồng peso của Philippines (-8%).