Trong đó có một số ý kiến muốn biết thêm sử liệu về lễ Trường Hy mà bài viết nhắc đến, đồng thời lý giải vì sao có sự bí ẩn trong thông tin về ngày sinh của hoàng hậu Nam Phương suốt một thời gian dài. Bài viết này sẽ phản hồi chung các ý kiến đó.
Từ khi cô Mariette Nguyễn Hữu Hào gặp vua Bảo Đại trong một buổi tiếp tân tại Đà Lạt vào tháng 2.1933 cho đến lễ cưới và phong hoàng hậu một năm sau, không có tài liệu chính thức nào ghi ngày sinh của hoàng hậu được công bố. Đến năm 1943, Phủ Toàn quyền Pháp tại Đông Dương mới ấn hành quyển Souverains et notabilités d’Indochine (“Vua chúa và thân hào Đông Dương”)(1) in tại Hà Nội giới thiệu các nhân vật quan trọng tại 5 xứ Đông Dương. Trong trang dành cho hoàng hậu Nam Phương có ghi như sau: “Sinh tại Sài Gòn (Nam kỳ) ngày 17 tháng 10 năm Giáp Dần (4 tháng 12 năm 1914), hoàng hậu Nam Phương là ái nữ của cố Quận công Long Mỹ Nguyễn Hữu Hào” (2).
Ngày và năm sinh của hoàng hậu trong tài liệu của chính quyền bảo hộ cũng ghi theo âm lịch như truyền thống Đông phương, tiếp theo trong ngoặc là ngày tương ứng theo dương lịch. Từ đó, mọi người đều xem ngày 4.12.1914 là ngày sinh của hoàng hậu Nam Phương ghi trong một tài liệu chính thức không ai chối cãi được.
Năm 1995, tức hơn nửa thế kỷ sau tài liệu của Phủ Toàn quyền, Hội đồng trị sự Nguyễn Phúc tộc cho xuất bản một tập Nguyễn Phúc tộc thế phả dày 477 trang, khi viết về hoàng hậu Nam Phương cũng ghi những chi tiết ngày tháng giống như trên.
Thế nhưng trong cuốn Nam Phương, hoàng hậu cuối cùng của Việt Nam của nhà sử học người Pháp xuất bản năm 2019, tác giả François Joyaux khẳng định trong phần đầu quyển sách ngày sinh của hoàng hậu Nam Phương là 14.11.1913, như khắc trên tấm bia nhỏ nơi mộ hoàng hậu. Kèm theo là một ghi chú đưa về phần cuối sách nguyên văn như sau: “Người ta đôi khi có thấy, kể cả trong các văn bản chính thức, ngày 4.12.1914. Đó là một điều sai lầm. Nguyên nhân là ngày sinh thật sự 14.11.1913 không thuận lợi đối với các chiêm tinh gia của triều đình, và họ thay đổi ngày vào dịp đám cưới, năm 1934. Hơn nữa, cần để cho hoàng hậu tương lai trẻ hơn nhiều so với hoàng đế vì hoàng đế sinh ngày 22.10.1913, nghĩa là chỉ trước hoàng hậu có 3 tuần lễ mà thôi”. Nguồn của thông tin này là do cuộc nói chuyện với nhân vật giấu tên ngày 27.10.2017.
Có một sự kiện quan trọng là hằng năm triều đình đều tổ chức mừng sinh nhật của hoàng hậu vào ngày 17 tháng 10 âm lịch. Vì tò mò, chúng tôi muốn biết ngày 14.11.1913 tương ứng với ngày nào theo âm lịch. Trên mạng có nhiều trang cho phép chuyển đổi tức khắc một ngày dương lịch sang âm lịch và ngược lại. Kết quả, ngày 14.11.1913 theo âm lịch là ngày 17 tháng 10 năm Quý Sửu.
Như vậy rất có thể các nhà chấm số tử vi của triều đình thấy tuổi của hoàng hậu tương lai quá gần với tuổi vua Bảo Đại bèn cho hoàng hậu trẻ đi đúng một năm, để hoàng hậu sinh năm Dần (1914) thay vì năm Sửu (1913) và vẫn giữ nguyên ngày sinh theo âm lịch là ngày 17 tháng 10. Tổ chức lễ sinh nhật hoàng hậu mỗi năm theo âm lịch là luôn luôn… đúng! Kết luận là ngày sinh 14.11.1913 ghi trên mộ hoàng hậu có một lối giải thích hợp lý và chúng ta có thể tin tưởng đó là ngày sinh thật sự của hoàng hậu Nam Phương.
Sau ngày tấn phong hoàng hậu, mỗi năm triều đình tổ chức mừng sinh nhật hoàng hậu, gọi là lễ Trường Hy, rất long trọng. Năm 1935 lễ được tổ chức lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 10 năm Ất Hợi, nhằm ngày 12.11.1935. Triều đình tổ chức lễ sinh nhật hoàng hậu căn cứ trên âm lịch, không phải theo dương lịch. Tờ Hà Thành Ngọ Báo tường thuật như sau:
Nhân dịp sinh nhật của Nam Phương hoàng hậu, Chánh phủ Nam triều có thiết lễ Trường Hy vào ngày 17 tháng 10 ta (12.11.1935).
Trước ngày lễ ngài hoàng hậu bận lễ phục ngự qua 3 cung: Diên Thọ, Trường Sanh và Thái Bình làm lễ thỉnh an 3 ngài thái hoàng thái hậu và thái hậu. Buổi trưa quan Thượng thư Bộ Lễ nghi Tôn Thất Quảng vào Đại nội dâng lễ của triều thần mừng ngày Trường Hy.
Sáng 12.11 tại các cung và các điện đều trần thiết theo ngày Đại khánh hỷ. Ngài Nam Phương hoàng hậu ngự xe rồng tới cung Diễn Tâm, theo sau có các thái giám, cung nữ, văn phòng hoàng thượng và quan Đại nội nghi lễ đại thần Bửu Thạch. Các ngài thân vương, các quan thượng thư Viện Cơ mật, quan thượng thư Phủ Tôn nhân Ưng Bảng, quan trung quân Nguyễn Hữu Tiển, quản đốc các đội lính tại Đại nội và các quan văn võ cũng tề tựu tại cung Diễn Tâm.
Đúng giờ định, hoàng hậu ngự vào điện chánh ngồi trên ghế vàng, các triều thần tới làm lễ mừng. Đoạn, đến các bà vương phi, phủ thiếp, các bà mệnh phụ đến làm lễ sau. Lễ xong, ngài Nam Phương đãi rượu mừng. Buổi chiều, quan Khâm sứ Trung kỳ Graffeuil cùng các quan trong văn phòng và các vị cố vấn tại các bộ bận lễ phục vào điện Kiến Trung mừng hoàng hậu. Các quan thượng thư đều dự lễ.
Tại các cửa Đông, Nam, Thái Bình đều có lính bồng súng đứng hầu. Tối, tại các cửa thành và kỳ đài, các phố xá đều có treo cờ…(4).
Thật là một đại lễ huy động tất cả các quan văn võ của triều đình, của văn phòng hoàng đế, các bà vương phi, mệnh phụ phu nhân, cả Khâm sứ Trung kỳ và cố vấn người Pháp tại các bộ, đều đến chúc tụng ngày sinh nhật của hoàng hậu!
Năm 1936, lễ Trường Hy được tổ chức ngày 17 tháng 10 (năm Bính Tý), tức là ngày 30.11.1936. Tuy nhiên, theo tin các báo, mấy ngày qua khí trời thay đổi, mưa nắng thất thường, cả hoàng hậu lẫn hoàng thượng đều “ngọc thể bất an” nên không tham dự được các buổi lễ. Các buổi chầu của các đại thần Viện Cơ mật cũng như Khâm sứ Trung kỳ đều hủy bỏ. Nhưng các cuộc thi đấu thể thao, bóng tròn, bóng bàn, quần vợt, đua xe đạp, vẫn diễn ra theo đúng chương trình. Khắp các đường phố, trước các dinh thự, công sở và các tư gia đều treo cờ bay phấp phới. Nhân dịp lễ Trường Hy, Bộ Công tác đã mời Khâm sứ Trung kỳ Maurice Graffeuil khánh thành lầu Bát Giác trên bờ sông Hương mới xây xong một tuần trước đó. Lễ cắt băng khánh thành diễn ra như dự tính và sau đó quan khách lên lầu chứng kiến cuộc đua thuyền trên sông Hương để mừng ngày lễ Trường Hy (5).
Năm 1938, hoàng hậu sinh công chúa Phương Liên ngày 3.11 tại Đà Lạt. Lễ Trường Hy 17 tháng 10 (năm Mậu Dần) nhằm ngày 8.12.1938 được tổ chức trong 4 ngày, từ tối thứ Sáu 2.12 (rước đèn) đến sáng thứ Hai 5.12, kết hợp với lễ đầy tháng của công chúa Phương Liên. Chương trình không có những nghi lễ triều đình, chủ yếu là những cuộc rước đuốc, dạo đèn, tranh tài thể thao, đấu võ đài tranh giải “Công chúa Phương Liên”…
Tấm ảnh kèm theo bài viết này chụp vào sáng thứ hai 5.12.1938. Trong ảnh có vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương, thái tử Bảo Long hơn 2 tuổi, công chúa Phương Mai được 1 tuổi 4 tháng. Phía sau là bà Graffeuil và Công sứ kiêm Đốc lý Đà Lạt Michel de Boiboissel. Hoàng hậu đang dẫn thái tử và công chúa đến địa điểm học sinh các trường công và tư đang cầm cờ tụ tập để chào đón và mừng hoàng hậu.
Năm 1939 hoàng hậu Nam Phương và các con vừa ở Pháp về đến Huế đầu tháng 11. Tình hình căng thẳng vì Chiến tranh thế giới lần thứ hai vừa bùng nổ. Lễ Trường Hy nhằm ngày 27.11 (17 tháng 10 năm Kỷ Mão) vẫn được cử hành nhưng đơn giản đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, Khâm sứ Trung kỳ Maurice Graffeuil cùng với phái đoàn chính quyền bảo hộ vẫn đến điện Kiến Trung chúc mừng hoàng hậu. Bản chúc từ của quan Khâm sứ Trung kỳ Maurice Graffenil đọc trước mặt hoàng hậu Nam Phương trong dịp lễ Trường Hy của ngài có đoạn (chúng tôi trích nguyên văn theo tài liệu xưa nên vài chỗ sẽ khác chính tả ngày nay):
Lễ Trường Hy lại là một nhịp nữa cho chúng tôi được sự hoan hỹ là chầu ngài ở nơi cảnh trí điều hòa nầy mà hình ảnh trong ký ức của chúng tôi đều liên lạc với dấu vết kỹ niệm đấng Nữ-Quốc-Vương ngự tại đấy. Ngài có ban cho tôi được phép nhắc lại cái giá trị đặc biệt của những kỹ niệm đó, đối với tôi kể từ lần thứ nhất ngài mới ngự về bến nầy, và tôi được cái vinh dự đến dâng lời kính phục chào mừng và cầu chúc đầu tiên. Kể từ ngày huy hoàng đó, mỗi năm lễ Trường Hy dân lại cho tôi cái nhiệm vụ êm đềm là được đến dâng lòng thành kính và lời cầu chúc. Mà ngày đó đã chóng thành ra một ngày lễ chung cho quốc dân của như những lẽ xưa của hoàng triều. Năm nay tấm lòng khoan đại của ngài không muốn cho trong ngày ấy có những cuộc vui chung ở chốn đô hội, vì hiện nay ở mẫu-quốc bao nhiêu quả tim của kẻ phụ nữ làm vợ, làm mẹ đương lo lắng cho người thân yêu của họ không biết ngày mai sẽ ra sao. Mà chính những quả tim ấy, trước khi ngài từ giã đất Pháp, ngài đã nghe đánh theo một nhịp, vừa đau đớn, vừa mãnh mẽ nhưng không phải sợ sệt mà lại đầy đẫy mối thương tâm và chí tín ngưỡng là những đều mà lòng trắc ẩn của ngài đã hết sức nhận rỏ. Ngài vừa mới hồi loan, những lời ngài ban đầu tiên e tõ cho chúng tôi hay mối tình quyến luyến cao quí của ngài đối cùng nước Pháp, mối tình mà trong những ngày khó khăn nầy, người Pháp chúng tôi rất lấy làm cảm-động. Và trong khi cảm-động, tôi chỉ có thể tâu một lời là “Xin tạ ân ngài”.
Trước khi cầu chúc ngài hưởng toàn diễm phúc, tôi muốn tâu lại lời kia để đáp tấm lòng nhân từ khoan đại và sốt sắng của ngài.
Thay mặt cả người Pháp và người Nam tôi xin tạ ân ngài đã chóng hồi loan, xin tạ ân cách hành động của ngài đối với các cuộc tương trợ chiến sĩ, ãnh hưởng của ngài đối với tất cả các điều phúc thiện, xin tạ ân nét cười và lời ban khuyến khích của ngài đã làm cho ai nấy được vững tâm. Những ân huệ chúng tôi thọ hưởng đó, tôi trông lời cầu chúc của chúng tôi dâng lên, trong nhịp lễ Trường Hy này nhờ đó mà được huy hoàng một cách đặc biệt.
Tâu Hoàng-Hậu
Lòng quyến luyến và kính phục của chúng tôi xin gưởi vào trong lời cầu chúc nồng nàn và dâng lên ngài cùng tất cả Hoàng gia. Tôi tâu xin ngài nhận thấy thế khi ngài ban nhận lời cầu chúc mà tôi thay mặt Chính-phủ bảo-hộ và người Pháp ở Trung kỳ, thay mặt các quan viên hợp tác với tôi, và riêng về phần tôi nữa, xin dâng lên. Tánh cách sốt sắng và chân thật của lời cầu chúc đó cân với lòng tri ân và chí tận tâm của chúng tôi (bài đăng trên Tuần Lễ số 83, ngày 2.12.1939).
Đến năm 1941, trong bản tin kèm hình ảnh trên Tràng An Báo, số 916, ngày 5 tháng 12 năm 1941 – lễ Trường Hy tổ chức tại điện Kiến Trung cũng vào đúng ngày 17 tháng 10 âm lịch.
Như vậy, mỗi năm triều đình cũng tổ chức lễ Vạn Thọ để mừng sinh nhật hoàng thượng vào ngày 23 tháng 9 âm lịch (ngày sinh của vua Bảo Đại 22.10.1913 tức là 23 tháng 9 năm Quý Sửu). Nghi thức cử hành lễ Vạn Thọ cũng có chiêm bái tại đình Phụng Tiên, thủ tục vấn an các thái hoàng thái hậu và thái hậu, buổi thiết đại triều tại điện Thái Hòa, đình thần đọc biểu tạ, Khâm sứ chúc mừng… Lễ Trường Hy cũng không kém phần long trọng, nhưng các cuộc vui chung quanh lễ Trường Hy còn có phần náo nhiệt hơn lễ sinh nhật hoàng đế nữa.
Tất cả những sự việc đó nói lên một điều là triều đình rất coi trọng việc kỷ niệm ngày sinh của hoàng hậu, đánh dấu bằng một lễ lớn hàng năm.