Buổi sáng đi bộ ra chợ gần nhà. Trời bỗng đổ ụp cơn mưa thật lớn. Chạy vội vào quán cà phê quen gần đó ngồi nhâm nhi ly cà phê đầu ngày chờ mưa tạnh.
Lâu lắm mới có dịp ngồi một mình ở góc chợ này. Quán đặc kín người núp mưa. Xe đậu đầy trước cửa. Nhưng nhìn lên đường vẫn nhiều bà, nhiều chị xách bọc, xách túi đi dưới cơn mưa tầm tã. Hóa ra, họ có chiếc nón lá trên đầu. Lại một điều chợt nhớ thú vị!
Ừ, mình đã không đội nón lá từ bao lâu rồi kìa? Sau những ngày trung học có phải? Bước vào đại học là đã bỏ chiếc nón lá giản dị, đã làm duyên làm dáng với cây dù hoa bung ra cụp vào rồi.
Còn mấy lúc sau này thì… kè kè chiếc mũ bảo hiểm trên đầu, vả lại nếu có đi bộ thì cũng nón vải, nón jeans chứ lấy đâu ra nón lá. Lại nhớ thỉnh thoảng nghỉ hè ra Nha Trang tắm biển, cũng có mua vài cái nón lá ngoài đó nhưng là để tặng mấy bà, mấy chị bà con trong quê chứ bản thân mình có đội đâu!
- Xem thêm: Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Vậy là, bấy lâu nay tôi chỉ hình dung ra chiếc nón lá trên đầu mấy chị làm vườn, làm ruộng làm rẫy ở miệt vườn mà quên béng những chiếc nón lá ấy vẫn còn hiện diện trong thành phố này.
Sao lại không? Còn gì gọn gàng, tiện dụng hơn nón lá trong mùa mưa chứ. Cả những ngày nắng nóng nữa, một chiếc nón lá che đầu chẳng phải mát mẻ dễ chịu hẳn không? Đúng là từ lâu, mình đã “xa” quá cuộc sống đời thường rồi! Giống y như nhiều kẻ đi đó đi đây cho lắm, cuối cùng vẫn không hiểu gì về chính quê mình.
Trời vẫn mưa như trút nước. Những chiếc nón lá cứ bình thản đi qua, đi qua trên con đường chợ khơi dậy trong tôi nhiều kỷ niệm. Chính trong cái xóm lao động tôi đang sống, sát khu chợ này đây trước giải phóng hầu như mọi nhà đều làm nghề ghịt nón (miền ngoài gọi là nứt vành nón). Và chính bà mẹ chồng tôi đã dẫn cả xóm đi lãnh nón về làm.
Những chiếc nón lá đã chằm xong được mấy bà, mấy chị đội về nhà từng chồng cao nghệu rồi dùng sợi chỉ gân may lại vành nón cho nón chắc chắn không bị bung vành.
Còn nhớ, một chục nón ghịt vành ấy chỉ có mấy ngàn đồng nhưng người làm giỏi cả ngày có thể ghịt khoảng năm, sáu chục cái. Mấy bà tuổi cao rảnh rỗi, mấy chị nội trợ tranh thủ làm thêm cũng kiếm đủ tiền mua gạo. Vui nhất là cứ mỗi buổi trưa, ai có dịp vào xóm sẽ thấy từng chồng nón nghễu nghện đi qua mà không biết người bên dưới là những ai nữa…
Nghe nói cả thành phố giờ chỉ còn một chỗ cung cấp nón lá, những chiếc nón lá lấy từ miền ngoài vào. Những người lãnh nón về ghịt chắc chẳng còn được mấy người. Riêng trong con hẻm tôi ở, mọi người đã bỏ nghề này từ lâu. Mẹ chồng tôi đã mất, bà Bảy cuối xóm cùng thời với mẹ tôi lưng còm sát đất, chắc cũng sắp ra đi. Cái nghề ghịt nón phụ thu ngày xưa đã đi vào quá khứ rồi.
Vậy mà… Buổi sáng mùa mưa này, những chiếc nón lá đội trên đầu các chị, các bà đi chợ sao lại khơi trong tôi bao mối cảm hoài. Lòng lại thầm gọi: Nón lá ơi!