Trong hợp tuyển “Việt Nam – Những tiếng vọng từ quá khứ”, một An Nam tươi đẹp, kỳ vĩ, bí ẩn và đậm chất hương xa hiện lên qua cái nhìn của những người nước ngoài từng đặt chân tới mảnh đất này.
Cuốn sách gồm 14 bài viết thuộc nhiều thể loại, từ văn bản lịch sử, khảo cứu đến ký sự, tiểu luận do các tác giả trong và ngoài nước chấp bút, chạm đến nhiều bình diện của đời sống An Nam xưa: lịch sử, chính trị, xã hội, văn hóa, tín ngưỡng, nghệ thuật.

Nếu phần lớn các tác giả ngoại quốc nhìn An Nam bằng ánh mắt ngưỡng mộ, tò mò trước sự khác biệt văn hóa, thì Phạm Quỳnh – tác giả Việt Nam duy nhất trong tuyển tập – lại viết với cảm xúc gần gũi, thiêng liêng khi nói về phong vị ngày Tết và tục thờ cúng tổ tiên. Đặt cạnh nhau, các bài viết tạo nên một đối thoại đa thanh, cho thấy ngay trong giai đoạn thuộc địa, bên cạnh những định kiến và chiến lược khai thác phiến diện, vẫn có không ít trí thức đến từ “mẫu quốc” nhận ra giá trị riêng biệt của văn hóa bản địa và sự cần thiết phải tôn trọng nó.
Lịch sử dưới một lăng kính khác
Điểm nổi bật của Việt Nam – Những tiếng vọng từ quá khứ là sự quan tâm sâu sắc của các tác giả ngoại quốc đối với lịch sử Việt Nam. Trái với lối nghĩ quân đội thực dân chỉ đến nước ta vơ vét, bóc lột, thì trong dòng chảy chìm nổi ấy, có nhiều người ngoái nhìn An Nam bằng sự ngưỡng mộ với trang sử dài, không ít biến động.
Tiêu biểu là bài Lược khảo về các nguồn sử liệu An Nam của “cố cả” Léopold Cadière – Thừa sai tông tòa và Paul Pelliot – Giáo sư Viện Viễn Đông Bác cổ. Trong đó hai tác giả phân tích cấu trúc, mục đích biên soạn và giá trị học thuật của các bộ sử lớn như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Liệt truyện tiền biên… Bằng cách phục dựng nguồn gốc các tác phẩm, so sánh dị bản, truy nguyên niên đại và nhận xét về phương pháp biên soạn, các tác giả này cho thấy sự tôn trọng lịch sử và chính quốc gia họ đang nhắc tới, bởi lịch sử có thể nói là căn tính, là dấu ấn riêng của một quốc gia.
Tinh thần ấy cũng hiện diện trong bài du ký Từ Thị Nại đến Bla của Công sứ Quy Nhơn Eugène Navelle. Khi lần theo dấu vết Chăm Pa tại các phế tích, làng mạc đất Bình Định xưa, ông không chỉ ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, mà còn gợi mở những suy tư về quyền lực, sự tiếp nối và những lớp trầm tích lịch sử. Việc nhắc đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn hay quá trình khai hoang về phương Nam từ thế kỷ XVII cho thấy một cái nhìn có chiều sâu, vượt ra ngoài khuôn khổ thông thường của thể loại du ký.
Đọc những trang này có thể thấy Eugène Navelle không đơn thuần đặc tả những gì mắt thấy tai nghe vốn là đặc trưng của thể loại du ký, mà ở đâu đó còn là những suy tư trầm ngâm về quyền lực và sự tiếp nối. Điều này dễ khiến ta nhớ đến W.G.Sebald – học giả người Đức, người cũng nhìn thấy trong các phế tích, đền đài những lớp ký ức đan xen, chồng chéo và đầy phức tạp.
Đơn cử ông viết: “Ký ức về những sự kiện diễn ra cách đây hơn một thế kỷ vẫn còn sống động trong tỉnh Quy Nhơn, dù cho dân chúng An Nam đã học được cách im lặng và lãng quên trước sự trừng phạt của những kẻ bạo chúa. Nhà vua chỉ cho phép triều đình biên soạn thực lục và quan lại không để cho thần dân đọc nó. Ở An Nam, sách vở bị giấu giếm như kẻ mưu phản; chỉ những người bạo gan mới dám nhốt mình trong đêm để đọc một trang sử ký hoặc lật giở một bộ luật mà không ai có quyền sở hữu”.
Các triều vua Nguyễn cũng được nhiều tác giả ngoại quốc dành sự đánh giá tích cực. Cadière và Pelliot ca ngợi Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là những vị vua có học vấn sâu rộng; vua Gia Long được ghi nhận bởi tầm nhìn trong việc lập bản đồ cương vực và đặt nền móng cho công tác biên soạn sử ký.
Robert Chauvelot (thành viên của Hội đồng thuộc địa ), trong Khám phá Viễn Đông, dành những trang viết chi tiết về vua Khải Định từ dáng vẻ, phục sức đến sinh hoạt và nghi lễ. Trong khi Toàn quyền Pierre Pasquier, với bài Hoàng đế và triều đình An Nam, đối chiếu chế độ phong kiến An Nam với lịch sử Pháp để làm nổi bật cơ cấu và nghi lễ hoàng cung. Qua đó, người đọc có thêm một góc nhìn khác về bộ máy nhà nước và đời sống chính trị – văn hóa An Nam xưa.
Tính bản địa độc đáo
Không dừng lại ở lịch sử, các tác giả Pháp trong tuyển tập còn dành sự quan tâm đặc biệt đến yếu tố bản địa. Trong Tín ngưỡng và cố ngạn ở thung lũng Nguồn Sơn, Cadière ghi chép tỉ mỉ về thế giới niềm tin dân gian với các loại ma và hệ thống tín ngưỡng gắn với động vật, đồ vật. Những trang viết này mang dáng dấp của một công trình dân tộc học, được hình thành từ trải nghiệm điền dã trực tiếp.
Ở một hướng khác, Một đêm coi tuồng của Chưởng khố Trung Kỳ Edmond Gras Edmond Gras tái hiện sinh động không khí một buổi xem tuồng dân dã ở Gia Hội, Huế đầu thế kỷ XX, với sự nhộn nhạo của trẻ con bán hàng vặt, mùi đồ ăn lan tỏa và không gian sân khấu tạm bợ. Nhưng bài viết quan trọng hơn của Gras lại là Vài suy nghĩ về giảng dạy nghệ thuật ở An Nam viết năm 1915, trong đó ông đã tiên đoán trước về sự thành lập các trường Mỹ thuật Đông Dương, Mỹ thuật Gia Đình… Tại đây ông khẳng định nghệ thuật An Nam đã và đang suy vi một cách đáng tiếc khi “thợ thủ công ngủ quên trong quá khứ và ngọn lửa sáng tạo đã lụi tàn”.
Nói về lý do, ông lập luận là do nghệ sĩ và tác phẩm nghệ thuật từ lâu bị triều đình độc quyền, khiến người tài – những ai vốn yêu chuộng cuộc sống tự do, muốn sống thong dong cùng gia đình bằng sản phẩm của mình – phải e ngại. Ngoài ra sự biến động liên tục và bản tính lãnh đạm của người An Nam cũng là một lý do khác…
Điều đáng chú ý là trong bối cảnh đó, Gras không cổ súy cho việc áp đặt mỹ học phương Tây. Trái lại, ông đề xuất phải tuyệt đối tôn trọng đặc thù An Nam, khuyến khích nghệ sĩ tìm về chùa chiền, cung điện… bởi ở đó lưu giữ những hình mẫu thuần khiết nhất của nghệ thuật bản địa. Theo ông, người Pháp chỉ nên đóng vai trò “hướng đạo âm thầm”, tránh “nhào nặn” nghệ sĩ theo hình ảnh của mình, bởi điều đó không chỉ là sai lầm mà còn mang tính hủy diệt.
Quan điểm này được ông đúc kết thành một nguyên tắc có giá trị phổ quát đó là “tôn trọng cá tính của mỗi người, khí chất riêng cũng như bản sắc dân tộc của họ. Chỉ khi giữ vững nguyên tắc đó, ta mới tránh được sự sao chép lệ thuộc, tệ hơn nữa là đạo nhái, suy đồi và tiêu vong”.
Từ những trường hợp tiêu biểu trong Việt Nam – Những tiếng vọng từ quá khứ, có thể thấy không ít người Pháp từng đến An Nam với thái độ ngưỡng mộ và tôn trọng hiếm có. Có thể những quan điểm trên thuộc về số ít hay đã chìm xuống trong dòng lịch sử, nhưng không thể phủ nhận những trang viết này có giá trị rất lớn trong việc tái hiện một Việt Nam tươi đẹp, kỳ bí từ những tiếng vọng xưa cũ.