Những năm 1967-1970, chiều ý má tôi, tôi thi vào Đại học Sư phạm Sài Gòn. Bốn năm trời, từ xứ Cần Thơ “gạo trắng nước trong” tôi khăn gói lên Sài Gòn đi học; ở nhà một ông cậu họ, được mợ lo cơm nước, lại thêm thằng em cô cậu ruột cũng lên học Kỹ thuật Phú Thọ ở cùng, làm tài xế đưa đi học nên tôi sống rất dễ chịu, chẳng hề có cảm giác xa nhà, lại rất thích vì ít bị “quản thúc” nữa.
Nhà cậu mợ tôi ở đường Phạm Thế Hiển, thuộc quận 8 nhưng rất gần phía chợ Xóm Củi, bến Nguyễn Duy. Từ Chợ Lớn vào, đi ngang qua xóm Củi rồi rẽ xuống con đường dưới dạ cầu Nhị Thiên Đường, vừa qua khỏi cua quẹo một đỗi là đã đến nhà. Cậu mợ tôi trước cũng sống một thời gian ở con hẻm bên xóm Củi, sau khấm khá nên mua được căn nhà mặt tiền này. Nhà rộng, thoáng mát, thích nhất là bọn tôi được “ngự trị” cả một căn gác tầng trên, tha hồ tung hoành. Bọn tôi ở đây là tôi, thằng em cô cậu và một cô em gái con cậu mợ tôi. Cả ba đứa cùng một tuổi, chơi với nhau từ ngày nhỏ nên giờ gặp lại, ở cùng nhà, thôi thì… khỏi nói cũng biết.
Bây giờ, sau biết bao sóng gió, chìm nổi của cuộc đời, nhớ lại những ngày nơi đó, tôi mới cảm nhận được mình thật hạnh phúc khi cả một thời thanh xuân trôi qua êm đềm và nồng ấm như thế dưới mái nhà ấy, trên căn gác kia. Làm sao đếm hết những buổi sáng vàng mơ, những buổi chiều tím ngát, từng ly cà phê thơm lừng uống vội trước giờ đi học, từng buổi tối lang thang trong con hẻm xa hút gần nhà cho đến khi mệt nhoài, bước vào chiếc quán quen húp xì xụp tô cháo trắng ngon lành…
Và không thể quên là những con đò dưới bến sông, một nét quê nhà mà tôi bắt gặp nơi thành phố Sài Gòn nhộn nhịp ngựa xe ấy. Căn nhà cậu tôi ngó ra cầu Hiệp Ân, cây cầu ngắn có cái điếm canh đằng kia. Mỗi khi thằng em không chở được, tôi phải lên cầu đón xe lam đi ra cầu Chữ Y về bến Nguyễn Biểu để đến trường. Chỉ cần bước xuống con đường đất nhỏ nằm khuất sau mấy cây me lớn, sẽ thấy một bến đò với một hai con đò nhỏ cắm sào đợi khách, chỉ hai ba khách thôi, cô gái nhỏ sẽ quẫy mái chèo cho đò tách bến. Một hai tay chèo nữa đò sẽ cặp bến bên kia, bến Nguyễn Duy, bước lên là chợ Xóm Củi ồn ào, náo nhiệt. Tôi rất thích xuống con đò này sang chợ, dù có khi chẳng phải mua sắm gì, chỉ là để hưởng cái cảm giác từ êm ả bên này đến xô bồ bên kia, thật nhanh, vậy thôi.
Những buổi sáng nghỉ học tôi hay qua chợ như vậy. Ngược lại, có chiều tan học, tôi đi xe về cầu Chà Và để xuống bến Nguyễn Duy, xuống đò về nhà. Buổi chiều trên dòng sông nhỏ mới đẹp làm sao, mà cũng bâng khuâng man mác làm sao! Nắng quái chiều hôm đỏ rực, con đò trôi êm, không khí của một ngày náo động chùng xuống, lòng người mênh mang sầu nhớ một điều gì chính mình cũng không biết… Cứ thế, cho đến lúc bước lên con đường đất nhỏ, hai bên đường mấy cụm hoa mắc cỡ đã xếp lá, mấy cây me cổ thụ cũng rủ cành thiêm thiếp giấc nồng và trên đầu cầu đằng kia, chú lính canh vẫn ngồi im như pho tượng trong cái chòi nhỏ… Tất cả những cảnh tượng ấy, những hình ảnh ấy sao mà như mới hôm qua tôi còn nhìn thấy, còn thân thiết xiết bao.
Cả ban đêm nữa, trong tôi vẫn còn một nỗi nhớ đau đáu cái bến đò nhỏ nhoi hiu hắt chốn thành đô sầm uất kia. Những đêm sáng trăng, tôi thường ra trước ban công căn gác nhỏ nhìn xuống dưới. Con đường vàng úa ánh đèn, những cặp tình nhân đi chơi khuya đèo nhau chạy vù qua rồi không gian lại trở về tĩnh lặng. Khu Phạm Thế Hiển những năm tôi sống vẫn còn hẻo lánh, dân cư còn thưa thớt, dài theo đường mỗi sáng tôi đi học sương mù vẫn phủ đầy trên các ruộng rau muống xanh um… Vì vậy tối tối cứ mười giờ trở đi là đường vắng dần, đứng trên gác cao vẫn nghe tiếng lộp cộp của đò cặp bến, tiếng nói chuyện của khách đi chợ vừa về trên con đường nhỏ dưới bến sông. Tôi thường đứng lặng im trong bóng tối thật lâu, nhìn xuống mặt cầu Hiệp Ân trước mặt, tai lắng nghe tiếng đò từng chiếc, từng chiếc ghé vào bến mà nhớ nhà, nhớ người yêu đang xa xôi diệu vợi.
Thế mà bây giờ, sau hơn bốn mươi năm, tôi lại đứng đây nhớ về nơi ở cũ như chính quê nhà mình năm xưa. Mấy năm nay có dịp lên thành phố, thỉnh thoảng tôi cũng đi qua đường Phạm Thế Hiển. Tên đường vẫn còn đó mà mọi thứ đã khác lắm, khác đến nỗi tôi không nhìn ra căn nhà tôi đã ở nữa. Cậu mợ tôi cũng về quê rồi gia đình tan tác cả sau khi cậu tôi mất. Đứa con gái lớn của cậu, bạn thân thiết một thời của tôi, đến giờ vẫn còn vất vả chuyện áo cơm, đôi lúc gặp nhau ôn chuyện cũ, vừa cười vừa khóc. Những ruộng rau muống đã thành nhà lầu, biệt thự… Quán cà phê, quán cháo quen chẳng một người năm cũ để hỏi thăm…
Tôi đành đi qua con đường xưa như người xa lạ, nhà cũ chẳng còn, bến đò dưới con đường đất nhỏ cũng biệt tăm dấu tích. Con đường mở rộng ra, cái điếm canh nhỏ cũng không còn, xóm Củi bên kia sông tôi cố tìm vào đã là một khu phố hoàn toàn lạ lẫm, những bà con gốc Hoa năm xưa chẳng biết đi lập nghiệp, làm ăn ở nơi nào. Tôi biết, thành phố Sài Gòn với lá me bay đầy trời những sáng nắng chiều mưa của tôi một thời tuổi trẻ vẫn còn đó; nhưng giống một cô gái, từng bước trưởng thành, già dặn, lớn khôn, thành phố xưa đã chuyển mình, đổi nhịp để tiến nhanh hơn, mạnh hơn trong lòng đất nước. Nhưng sao trong tôi vẫn mênh mang nỗi nhớ. Nhớ căn nhà tôi đã sống, con đường đất nhỏ nằm khuất dưới mấy gốc me bên kia đường và nhớ những con đò đã một thời cho tôi cảm giác ấm áp của kẻ xa nhà tìm gặp một chút bóng hình quê.