Sau nhiều năm tháng, tôi đã viết khá nhiều, cũng đụng chạm đến nhiều lĩnh vực, đề tài, với nhiều hình thức và giọng điệu khác nhau… Nhưng không hiểu vì sao, chưa lần nào tôi đề cập ý niệm về người mẹ. Có phải vì điều ấy gần gũi quá chăng, gần đến độ lắm khi thờ ơ hoặc quên lãng? Hay là, từ trong vô thức, tự biết rằng, rất khó có thể “diễn tả” được đôi điều liên quan đến trạng thái tâm thức này?
Dạy con, má tôi ít khi phải dùng đến roi vọt. Mà mỗi lần, cũng chỉ vài roi. Nhưng rất đau. Má luôn “hài tội” tôi hư nghịch như thế nào, rồi: “Nhớ không con?” xong, mới vụt một roi. Khuôn mặt má buồn bã, đôi mắt má rươm rướm. Mấy anh chị em tôi đều hiểu lòng má đau mỗi khi phải cầm đến cái roi mây, nên hầu như rất ít bị đòn…
Mùa đông năm ấy, má mua cho tôi và người anh con ông bác ra trọ học mỗi đứa một cái áo ấm bằng nỉ bình thường. Tôi thích cái áo có cổ viền bằng nhung và nằng nặc đòi. Hồi ấy, việc làm ăn của gia đình tôi đã bắt đầu đi xuống. Má tôi chiều ý, nhưng khi đưa chiếc áo cho tôi, mắt má buồn. Sau đó, tôi mới biết, cái áo tôi thích đắt tiền hơn… Mãi đến tận bây giờ, hơn năm mươi năm sau, mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn còn ân hận vì điều ấy…
Má tôi không biết chữ, dù nhà ông ngoại tôi không quá nghèo, bởi vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, chẳng có mấy gia đình ở miền Trung cho con gái đi học. Khi nghe bà nội bàn luận những chuyện “đời xưa”, con gái tôi xuýt xoa: “Bà mà được đi học, chắc chắn sẽ học rất giỏi”. Ký ức của má tôi tốt, bà nhớ chi tiết nhiều chuyện, kể lại rất khúc chiết. Cả ngày – giờ, quang cảnh, thời tiết… lúc các con ra đời, má đều nhớ rõ. Trong một lần bàn bạc việc gia đình, anh trai tôi nói: “Cứ tưởng anh em mình có hiểu biết nhờ đọc được chút ít sách, hóa ra, má giải quyết đúng hơn…”. Chính cái – biết bình thường của một người bình dân giữ được “nếp nhà” đã làm nên sự sáng suốt, hơn hẳn mớ sách vở thuần lý của chúng tôi. Có lần, tôi nói với các con: “Bà nội không đi học ở trường, nhưng nơi bà, còn quá nhiều điều mà chính ba không học được”…
Đêm đầu tiên má ra đi, anh chị em tôi và con cháu tề tựu trước quan tài. Tôi đã trò chuyện với má, như lúc má còn thở. Gia đình không báo tin cho ai và yêu cầu dịch vụ mai táng không cờ quạt, không kèn trống – âm nhạc. Nhưng nhà giữa phố, khó giấu được, người viếng quá đông. Giữa ý muốn giữ yên tĩnh cho đám tang và lòng biết ơn trước tình cảm – tập quán của quyến thuộc và bằng hữu, biết làm sao đây?
Bây giờ má ở đâu?
Câu hỏi thường tình ấy, tôi biết, chỉ là cái quán tính của sự trói buộc tâm lý. Tin vào nhân quả như một định luật của vũ trụ, tôi biết, má đang ở một nơi tốt đẹp hơn cõi sống này. Giản dị, chỉ vì má đã sống gần trọn một trăm năm với tấm lòng chân thực và không hề chủ tâm gây ra điều ác cho người khác.
Má ơi…