Trải suốt hơn 300 năm phát triển, sức mạnh dẫn đầu nền kinh tế Sài Gòn vẫn là xuất nhập khẩu, và nó có tiền đề ngay từ thuở ban đầu lập phố. Bên cạnh các nhà hàng hải nước ngoài, sử gia uy tín Lê Quý Đôn đã kể lại mẩu chuyện thú vị trong Phủ biên tạp lục rằng có một nhà buôn từ Đàng Ngoài vào: “Thường đi vào tháng 9 tháng 10, về vào tháng 4 tháng 5, thuận gió không quá 10 ngày đêm là tới… đến xứ Vũng Tàu ở đầu cõi Gia Định là chỗ hải đảo, có dân cư, hạ buồm đậu vào, hỏi thăm nơi nào được mùa, nơi nào mất mùa mới đến ở. Trên thì có cửa biển Cần Giờ, ở giữa thì vào cửa biển Soài Rạp… Đến chỗ nào cũng là thuyền buồm tụ họp, mặc cả thành giá thì người bán hàng tự sai người nhà khuân hàng xuống thuyền… Giá thóc rẻ, chưa nơi nào được như thế.Gạo nếp gạo tẻ đều trắng dẻo, tôm cá rất to, béo ăn không hết”.
Một góc chợ Sài Gòn xưa
Điều thú vị là không chỉ chính sử trong nước, mà cả các nhà hàng hải nước ngoài cũng ghi nhận nhiều tàu viễn dương quốc tế thường xuyên cặp cảng Sài Gòn. Trong đó có tàu của người Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Anh, Mỹ, Pháp, Miến Điện, Nhật Bản, Ma Cao… Xứ sở này có gạo dồi dào đến mức nhiều lần đã hào phóng cứu đói lân bang. Tháng 4-1789, nước Xiêm (Thái Lan), bị hạn, đói đã cầu xin Nguyễn Ánh và được tiếp cứu 8.800 vuông gạo, mỗi vuông tương đương với một giạ nặng 23kg. Năm 1804 lại đến Lữ Tống (Philippines) gặp nạn đói.Nguyễn Ánh lại hào phóng cho đong 500.000 cân gạo. Điều đặc biệt là từ thương cảng Sài Gòn rất nhiều chuyến tàu của nước Việt đã sản chở vật gạo, đường, kỳ nam, trầm hương, ngà voi, sừng tê giác đi đổi hàng hóa, đặc biệt là hàng quốc phòng như kim loại, thuốc súng, vũ khí…
Đất mần ăn
Sau thời Sài Gòn – Gia Định được xem là đất hưng long của Nguyễn Ánh, các vị vua ở triều đình Huế nối tiếp đã một thời ca thán người đất này không có nhiều kẻ học. Lần lại chính sử và cả các tập hồi ký của những người nước ngoài, chưa thể khẳng định điều đó.Nhưng nếu xét ở góc độ người dân xứ này không mê con đường khoa bảng để tiến thân, thì có lẽ cũng có phần đúng. Ngoài lý giải, nhiều người miệt này từ nguồn gốc di dân, lưu đày với “lý lịch” không thuận cho đường quan trường, còn có nguyên nhân quan trọng là thiên nhiên xứ này trù phú ưu đãi nên người ta không cần làm quan vẫn có cuộc sống ấm no, thoải mái.
Thú phong lưu của người Sài Gòn xưa
Trong luận án tiến sĩ “Vùng đất Nam bộ dưới triều Minh Mạng”, giáo sư Choi Byung Wook, chuyên gia Việt Nam học ở Đại học Inha, Hàn Quốc, đã đề cập nhiều vấn đề đặc điểm này của người miền Nam. Ông kể cuộc thi Hội dưới triều Minh Mạng, trong 75 tiến sĩ và phó bảng, chỉ có hai người Nam, trong khi 35 người Trung và 37 người Bắc. Lý giải nguyên nhân, ông cho rằng ngoài thái độ phân biệt của triều Minh Mạng và truyền thống học hành của hai miền ngoài, chính điều kiện kinh tế thuận lợi là nhân tố quan trọng của sự “yếu kém” trong sĩ tử “Nam nhân”.
Nét nhàn hạ của phụ nữ xưa cho thấy cuộc sống phong lưu của Sài Gòn
Giáo sư Choi Byung Wook dẫn chứng thú vị quan lại dưới triều Nguyễn nếu chỉ sống thanh bạch bằng đồng lương sẽ không đủ nuôi gia đình bình thường, trong khi một nông dân miền Nam có dăm mẫu ruộng là sống thoải mái. Lương của tri huyện mỗi năm là 22 hộc gạo, và chỉ 2,88 mẫu ruộng ở Biên Hòa đã đủ sản xuất ngần ấy, đất tốt dưới miền Tây còn nhiều hơn nữa. Điều này chính sửPhủ biên tạp lục đã ghi chép cụ thể: một hộc lúa giống ở Gia Định, Biên Hòa thu lại được 100 hộc, ở đất Mỹ Tho, Cao Lãnh thì thu đến 300. Đó chính là lý do “Nam nhân” không chuộng quan trường. Thậm chí, có người đã bỏ học, từ quan để trở về làm nông dân, thương nhân, tuy không mũ áo xênh xang nhưng có cuộc sống ấm no, tự tại, “được mùa ta quẩy thêm bầu rượu, áo nón rượu ghe mấy bác nông”.
Và Sài Gòn từ thuở đầu xa xưa ấy đã là miền đất hứa, xứ xở phóng khoáng của những người chí thú mần ăn.“Phủ Gia Định! Phủ Gia Định! Nhà đủ, người no chốn chốn/ Xứ Sài gòn! Xứ Sài Gòn! Ở ăn vui thú nơi nơi”.
Ảnh Tư liệu
Quốc Việt